Trao đổi với nhà sử học Tạ Chí Đại Trường về bài viết
Vấn đề Quốc hiệu ĐẠI CỒ
VIỆT
Đinh Văn Tuấn
Vừa qua nhân đọc bài viết Vấn đề Quốc hiệu ĐẠI CỒ VIỆT của
nhà sử học Tạ Chí Đại Trường (TCĐT) đăng trong Tạp Chí Xưa & Nay số 386,
tác giả đã góp ý và phê bình tôi, là tác giả của bài viết Nhận thức mới về Quốc hiệu nhà Đinh (Tạp Chí Xưa & Nay số 368-369).
Trước hết xin chân thành cảm ơn nhà sử học và
nay xin trân trọng phúc đáp và trao đổi với TCĐT như sau:
1. “ Ngờ rằng ông ĐVT biết “bạo” về chữ Hán, vì thấy ông dẫn “gạch….có
đóng dấu “kiến quốc hiệu viết đại Việt” mà lại được ông chuyển qua là “Đại Việt
quốc quân thành chuyên” (số 369, trang 7 cuối cột 1 đầu cột 2!)” [TC
Xưa & Nay số 386 trang 32 , cột 3]
Đúng là nhà sử học Tạ Chí Đại Trường đã tìm
ra một lỗi chữ Hán trong bài viết Nhận thức
mới về Quốc hiệu nhà Đinh nên đã chỉ trích, mỉa mai về trình độ chữ Hán của
tôi với độc giả. Nhưng thật đáng tiếc, TCĐT
đã quá vội vàng nên mắc sai lầm! Đây là lỗi chữ Hán (cùng vài lỗi khác nữa) do
sơ xuất từ khâu biên tập và ấn loát của Tạp Chí Xưa & Nay chứ không phải là
từ bài gốc gửi đăng của tôi, sau đó tôi đã đề nghị TC Xưa & Nay đính chính lại và đã được đăng vào TC
Xưa & Nay số 375 tháng
3-2011, trang 35 như sau: Trang 7, cột 2, dòng 1: “建國號曰大越”xin đọc lại
là: “大越国軍城塼” nay xin
thanh minh với nhà sử học và độc giả.
2. “…ông ĐVT khi bàn bạc có thể dẫn NTC, Hoàng Xuân Hãn (dù là để bài
bác) nhưng không nên dẫn, ví dụ Lê Văn Siêu chẳng hạn…có vẻ việc dẫn LVS là do
cùng tâm ý đối với lịch sử Việt nam, như
khi tìm ra nghĩa một chữ cù khác nhưng cũng có thể thấy rõ một phần vì đó mà
tác giả đã đưa ra các chứng dẫn thiếu sót, tự mâu thuẫn” [TC Xưa & Nay số
386 trang 32 , cột 2]
Việc nhà sử học TCĐT có ác
cảm, chê bai nhà sử học LVS là chuyện bình thường của cá nhân nhưng khi viết cần phải nghiêm túc với tinh thần khoa học chứ không thể chỉ với một lời
nói suông nhằm hạ thấp uy tín của người khác. Khi tôi trích dẫn LVS trong
bài viết của mình, không phải là vì học vị, số lượng tác phẩm, nhưng chính là
vì trong sách của LVS đã đưa ra được một
tục truyền về cách hiểu liên quan đến chữ Cù (Cồ) 瞿của
nhà Nho Việt xưa mà các sách khác không thấy đề cập, nhưng trước đó tôi đã
phê bình về cách giảng nghĩa chữ Hán không phù hợp của LVS: “...ông đã giải thích sai về chữ cù瞿,
Khang Hy Tự Điển không có chú âm nào là CỒ hay CỘ mà chỉ có CÙ, CỤ, CÂU, về
nghĩa thì "Trừng thị" là trợn mắt trông thẳng chứ không phải là một
chỗ trông thẳng như Lê Văn Siêu hiểu…ông đã hiểu chữ瞿 cù với nghĩa “một chỗ
trông thẳng” để gượng ép giải thích cách hiểu của cổ nhân: “Đại Cồ Việt có
nghĩa là nước Việt rộng lớn trông suốt cả bốn cõi hay tám cõi (bát hoang)”
nhưng thật ra cần phải hiểu 瞿=衢cù và 3
chữ大瞿越sẽ là 大衢越, như vậy quốc hiệu Đại Cù việt của
nhà Đinh mới đúng là có nghĩa như trên” rồi sau tôi mới nhận xét khách quan:
“Dù sao, thông tin của sử gia Lê Văn Siêu
về “lối hiểu của người xưa” đã trở thành một chứng cứ cần thiết cho lập luận
thiên về ý nghĩa chính trị xã hội.” [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Ngoài
chứng cứ về tục truyền, tôi còn dẫn ra những chứng cứ quan trọng khác như từ Khang Hy tự điển, Tôn Tử binh pháp…cùng sự phê
bình luận điểm Quốc hiệu nhà Đinh theo khuynh hướng Phật giáo để chứng minh cho cách hiểu 瞿
là một chữ Hán theo tinh thần xã hội, chính trị.
3. “Dẫn Trương Vĩnh Ký (1875) ghi lối chữ la tinh là Đại – Cù -Việt thì
biện minh được cho lập luận chính Huỳnh Tịnh Của là nguyên cớ phát sinh chữ Cù đọc thành Cồ (1895) nhưng lại cho biết G.
Dumoutier đọc Đại Cồ Việt năm 1894 thì làm sao đổ tội cho HTC được” [TC Xưa
& Nay số 386 trang 32 , cột 2, 3]
Tôi thực ngạc nhiên vì TCĐT đã không hiểu rõ luận
cứ của tôi về sự ngộ nhận từ Cù thành Cồ, nên phải trích dẫn lại từ bài viết của
tôi: “Nguyên nhân sâu xa dẫn đến luận
thuyết về chữ瞿 trong quốc hiệu nhà Đinh là chữ Nôm có thể
là do sự ngộ nhận về chữ瞿gắn liền với âm Hán Việt là “cồ” khởi
đầu từ học giả như Gustave Dumoutier, viết theo âm Hán Việt là “Đại CỒ Việt”
trong Etude historique et archéologique sur Hoa Lư. Première capitale de l'
Annam indépendante 1894 và các học giả tiếp theo viết chữ quốc ngữ thời kỳ đầu
như Phan Kế Bính với Nam Hải dị nhân liệt truyện [1912],Trần Trọng Kim trong Việt
Nam sử lược [1919], Đào Duy Anh với Giản Yếu Hán Việt từ điển [1932] khiến
cho các học giả, nhà nghiên cứu Hán Nôm sau này đã dựa vào để gán nghĩa cồ
là to, lớn theo cách hiểu hiện đại” [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Trong
giới hạn tài liệu đến nay, người đầu tiên đã viết ký âm La tinh 3 chữ 大瞿越 là “Đại CỒ Việt” đó là Dumoutier (1894)
chứ không phải là Huỳnh Tịnh Của như TCĐT hiểu lệch đi. Thời của Dumoutier đã đọc chữ Hán瞿là
“cồ”, là một cách đọc khác thay cho âm “cù” trước đó như Trương Vĩnh Ký đã ghi
nhận (1875) nhưng chưa đặt thành vấn đề về chữ Nôm.
Từ đây, âm Hán Việt “cồ” của chữ 瞿
(trong tên nước Đại Cồ Việt大瞿越,
tên Phật Cồ Đàm瞿曇)
bắt đầu lẫn lộn với
tiếng “cồ” được viết chữ Nôm là 瞿 (như tự vị Béhaine 1772-1773) nhưng chỉ
đến khi HTC bắt đầu chú nghĩa Cồ là to. lớn
(ĐNQÂTV 1895) thì theo quan điểm của tôi: “cách hiểu cồ có nghĩa là to, lớn là một ngộ
nhận khởi đi từ Huỳnh Tịnh Paulus Của và chỉ bắt đầu xuất hiện sau khi học giả
Sở Cuồng Lê Dư từ năm 1932 đã xác nhận 瞿 là chữ Nôm có trong quốc hiệu nhà
Đinh là Đại Cồ Việt 大瞿越, từ đó trở về sau đã trở thành một định
kiến, ngộ nhận về chữ Nôm đã có từ thời Đinh với chứng tích là chữ cồ瞿”.
[TC Xưa & Nay số 368 – 369] Như thế TCĐT sao lại cho tôi đã “đổ tội cho HTC” là
nguyên cớ phát sinh chữ Cù đọc thành Cồ? HTC cùng với cách giải nghĩa chữ Cồ瞿
là to, lớn chính là một chỉ dẫn, một chứng
cứ quan trọng khiến cho các nhà nghiên cứu sử và Hán Nôm từ Lê Dư trở đi ngộ
nhận về chữ 瞿 trong quốc hiệu 大瞿越nhà Đinh là là một chữ Nôm. Đây là
một sự thật khách quan.
4. “ Khi lấn vào địa hạt ngữ học của NTC, tác giả lộ sơ hở về kiến thức
khi cho rằng “từ xưa đến nay trong thư tịch Hoa ,Việt viết bằng chữ Hán hay Nôm
chưa bao giờ, viết chữ nào khác ngoài chữ (tuất+tẩu, thay chữ Hán trong trích
văn) Việt cả”. Không phải đâu, còn một chữ Hán khác để chỉ vùng quảng Châu mà
ông Bình Nguyên Lộc nhìn ra cái hình lưỡi cày dó!” [TC Xưa & Nay số 386
trang 32 , cột 3]
Trước hết xin phép được trích lại nguyên
ý của tôi: “Dù cổ nhân đọc theo giọng Trường
An hay giọng bản địa (HuWET hay KuWET) theo một âm tiết hay hai âm tiết đi nữa
thì từ xưa đến nay trong thư tịch Hoa, Việt viết bằng chữ Hán hay Nôm chưa bao
giờ, viết chữ nào khác ngoài chữ越 cả. Chính vào thời Đinh, trên gạch Hoa Lư đã đóng dấu dòng chữ Đại Việt quốc
quân thành chuyên và trên cột kinh Phật đỉnh Tôn Thắng ở Hoa Lư có khắc những
chữ Hán “Nam Việt Vương Đinh …Liễn” chỉ được viết bằng một chữ越
mà thôi! [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Ông TCĐT hiểu sai lập luận của tôi
rồi, ai không biết chữ 越còn viết là 粤hay có
nhiều dị thể khác nhưng không
liên quan đến mục đich của tôi là từ chữ
越 đang bàn hiện hữu trong thư tịch Trung Hoa thời Tống và di vật
khảo cổ thời Đinh – Tiền Lê như đã chứng minh, không hề có kiểu viết hai chữ theo luận chứng ngữ âm của NTC: (song
tiết) cùviệt = việt (đơn tiết) 瞿越 = 越.Chữ “Việt” 丂đời
Thương theo Bình Nguyên Lộc “suy đoán” là chữ chỉ dân Cổ Việt vì giống hình lưỡi rìu Quốc Oai chỉ là một
“ức thuyết” như chính BNL đã tự nhìn nhận trong sách của mình, làm sao TCĐT lại
có thể dùng làm chứng cớ khoa học để phản biện? Mong sử gia lục tìm trong thư tịch
Hoa – Việt xem có kiểu viết 2 chữ thay cho chữ越? Xin chân thành cảm
ơn.
5. “Ông nhắc dòng chữ: “…quốc quân thành chuyên”, sao không nhắc một
dòng chữ khác trên gạch: “Lý gia Đệ tam đế Long Thụy Thái Bình niên tạo…nhưng
vì định kiến muốn vứt chữ Cù, nên chỉ nói đến “những viên gạch Hoa Lư” rồi quên
dòng chữ khác kia mà cho rằng “những viên gạch này đã có sức mạnh làm thay đổi
các định kiến từ bấy lâu về quốc hiệu nhà Đinh” [TC Xưa & Nay số 386
trang 33 , cột 1]
Khi nghiên cứu tôi
đã biết gạch “Lý gia Đệ tam đế Long Thụy Thái Bình niên tạo” (Đúng ra là “Lý
gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ
niên tạo”) đã được phát hiện từ lâu
nhưng vì thông tin này chỉ có niên hiệu
đời Lý chứ không liên quan đến quốc hiệu nhà Đinh nên tôi không dùng làm chứng cứ cần thiết. Cho nên gạch thời
Đinh là “Đại Việt quốc quân thành chuyên大越国軍城塼” đương nhiên là một bằng
chứng rất quan trọng vì tính xác thực, khách quan “có sức mạnh làm thay đổi các định kiến từ bấy lâu về quốc hiệu nhà Đinh”
6. “Tại sao bản TT hiện thấy, hẳn có qua tay Vũ Quỳnh, lại không ghi chữ
cù này?” [TC Xưa & Nay số 386 trang 33 , cột 1]
Đã nói là “cổ quái” thì dĩ nhiên chữ 瞿 cũng phải ở dạng
“cổ quái” cho hợp với thời Đinh cách xa Vũ Quỳnh hàng 6 thế kỷ, do đó chữ瞿 cần phải được nhận dạng là một chữ Hán cổ như trong
Tôn Tử binh pháp thiên Cửu địa ghi: “có thế đất Cù Địa 瞿地…” và Cù Địa瞿地theo Hán ngữ
đại từ điển vẫn thông hành viết là “衢地”, theo Khang Hy “瞿:[唐韻] 其俱切, [集韻],
[韻會] 權俱切,音衢.義同”(瞿:Đường
vận, Tập vận, Vận hội; âm cù (衢). Nghĩa đồng). Trong thư tịch Việt, khi
viết chữ Lạc trong Lạc Long quân, Lạc hầu, Âu Lạc…hầu hết các sách còn lại từ đời
Trần đến Nguyễn đều chỉ ghi cùng một tự dạng là Lạc bộ trãi貉mà
thực ra thư tịch Trung Hoa lại ghi là lạc bộ mã 駱
hay Lạc bộ chuy 雒nên cũng dễ hiểu tại
sao ĐVSKTT hiện còn kể cả các sách khác lại không viết chữ nào khác nào ngoài
chữ瞿 - nếu thực sự do
Vũ Quỳnh tạo ra - . Đây là một tập tục hiếu cổ, kính trọng tiền nhân của nhà
Nho Việt xưa.
7. “… về tên Đại Cồ/Cù Việt, từ
lâu nay người ta vẫn lấy ở TT, nhưng trong tình thế chật hẹp của mình, tôi thấy
ông Y. Tsuboi nhắc rằng tên đó đã có ở Tống sử (bản dịch Nước Đại Nam đối diện
với Pháp và Trung Hoa (1847 – 1885), Hội sử học Việt Nam xuất bản, 1992/1993,
trang 132, chú 1)…Dù thế nào đi nữa thì tên Đại Cồ Việt…đã được người Tống ở xa
ghi vào sử triều của họ hẳn là tên nước đó có vào thời Đinh thật.” [TC
Xưa & Nay số 386 trang 33 , cột 2,3]
Sách Nước
Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847 – 1885) tôi đã từng đọc
rồi, kể cả dòng chú thích 1, trang 132 nhưng theo tôi chẳng có gì để tham khảo, dẫn chứng cả vì Y. Tsuboi không xác minh gì cả,
ông chỉ cho biết thông tin về “niên đại
giành được độc lập còn tranh luận” liên quan đến Đinh Bộ Lĩnh qua công trình nghiên cứu của Học giả Lê
Thành Khôi, Masahiro Kawahara. Tsuboi viết:
“…đặt tên nước là Đại Cồ Việt (Tống sử).
Xem Lê Thành Khôi, sđd, tr 138-139” có lẽ đây là một chỉ dẫn “quan trọng” đối
với nhà sử học TCĐT nên ông mới mừng rỡ khẳng định “Dù thế nào đi nữa thì tên Đại Cồ Việt…đã được người Tống ở xa ghi vào sử
triều của họ hẳn là tên nước đó có vào thời Đinh thật.” Không hiểu ông đã tìm sách Le
Viet Nam -Histoire et Civilisation, Paris, Les Editions de Minuit
1955 của Lê Thành Khôi để xem ở trang 138-139, tác giả có trích dẫn Tống sử liên quan đến quốc hiệu nhà Đinh
hay không rồi mới quả quyết? Thật không may cho nhà sử học đáng kính, Lê
Thành Khôi trong sách trên không hề
trích dẫn đoạn văn nào của Tống sử viết về Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt. Tôi lại phải mất
công tốn thời gian thẩm định lại (dù trước đó đã đọc rồi nhưng không thấy thông
tin liên quan) nguyên văn chữ Hán (đầy rẫy trên internet) của Tống sử 宋史 để xem thử có đoạn nào nhắc nhở đến quốc hiệu
nhà Đinh? Hoàn toàn thất vọng, không hề có 3 chữ 大瞿越
trong Tống sử! Vậy thì niềm tin thật thà (nếu không muốn nói là cả tin) của
ông TCĐT dùng làm luận chứng để bài bác, khuyên bảo tôi “Ông ĐVT nên đọc lời chú đó để biết thêm các tác giả Việt, Nhật khác”,
nay xin kính cẩn trả lại cho nhà sử học.
8. “Bảo rằng Đinh chỉ có tên nước là Đại Việt vậy mà, khi tìm ra ý
nghĩa hay ho của chữ cù này, ông lại cho là “hợp lý vì Đinh…mở ra một triều đại
chính thống đầu tiên trong nước Việt…nước Việt thống nhất hòa bình giờ đây đã
hanh thông, là nơi (đường lớn) thông tứ phương, thể hiện khát vọng sâu xa của một
bậc đế vương sau khi thống nhất sơn hà từ đó làm cho nưóc Việt ngẩng cao đầu, nhìn ra thế giới rộng mở hơn”.
Viết như thế này thì thật đáng khen nhưng một mặt khó tranh biện vì không phải
là sử học, mặt khác, có thể làm người ta không dám bàn tới vì sợ bị buộc tội
không yêu nước Việt” [TC Xưa & Nay số 386 trang 33 , cột 1]
Nói cho đúng thì lời
khen và quan ngại này của nhà sử học TCĐT nên dành cho sử gia Vũ quỳnh ở thế kỷ
XV I chứ không phải là tôi vì như tôi
đã lập luận: “sau khi khảo sát các văn bản
chữ Hán và các văn khắc (bia đá, chuông đồng) đời Lý- Trần, đặc biệt
là những di vật khảo cổ thế kỷ thứ X chúng tôi đã phát hiện ra được một thực trạng
về quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt大瞿越chưa
từng hiện hữu trong lịch sử nhà Đinh vào năm 968 nhưng chỉ xuất hiện trên văn bản
khắc in chữ Hán của ĐVSKTT, theo quan điểm của chúng tôi, những soạn giả bộ sử
này đã cố ý tạo ra một quốc hiệu mới cho nhà Đinh trước tình hình nhà Đinh theo
các tài liệu còn lại không thấy nói gì đến quốc hiệu mà một triều đại chính thống
mở đầu Bản Kỷ là nhà Đinh tất nhiên phải có, với phát hiện của chúng tôi
thì chính xác vào năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) danh xưng nước Đại Cù Việt do
chính sử gia Vũ Quỳnh sáng tạo ra khi biên soạn bộ Việt Giám Thông Khảo sau đó
đã chính thức du nhập vào ĐVSKTT .” [TC Xưa & Nay số 368
– 369] Còn về phần tôi, chỉ là người đã
“vén màn” đưa ra ánh sáng ý nghĩa, vị trí , thời điểm ra đời của 3 chữ Đại Cù Việt大瞿越, thế thôi.
9. “Nhưng tên Đại Việt thì không phải riêng của Đinh (ĐVT), không phải
chỉ của Lý (1054) như ở TT và mấy viến gạch kia chỉ dẫn. Nó đã có trước của
chúa Lưu Cung/Nghiễm lấy tên vào các năm 915-918, trước khi chuyển qua quốc hiệu
Nam
Hán” [TC Xưa & Nay số 386 trang 33 , cột 3]
Vấn đề này tôi sẽ trả lời nhanh gọn;
cần phải xác định giới hạn ở lịch sử Việt
Nam thuộc thời kỳ Ngô – Đinh - Tiền Lê đến Lý để khảo sát, tìm chứng cứ, lập
luận và ưu tiên cho những thông tin đắt
giá từ thư tịch Hán –Việt liên quan đến quốc hiệu Đại Cù/Cồ Việt hay Đại Việt ở
đất Cổ Việt (Giao Chỉ, Giao Châu) cho nên về quốc hiệu Đại Việt (917) ngắn
ngủi trước khi cải là Đại Hán hay Nam Hán (918) dù tôi đã biết (xin xem Đại Cồ
Việt /http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,39577/,Khảo về “Đại Cồ Việt” -
Nước Phật giáo lớn /http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,40618/) nhưng thấy
không cần thiết nêu ra vì không liên quan đến Cổ Việt.
10. “Rồi vì vướng víu cái thế mới thoát vòng ngoại thuộc…cũng có thể là
do sự co rút bản xứ hóa, “trở về với dân tộc” nên tên không phải là Đại Việt mà
là Đại Cồ Việt. Đến đây thì có thể dùng chữ “cồ” được rồi đấy” [TC Xưa
& Nay số 386 trang 34 , cột 2]
Tưởng nhà
sử học đưa ra một kiến giải mới với luận chứng vững chắc, rất “sử học” nhưng hóa
ra, ông cũng chỉ bay bổng theo cơn cảm hứng tưởng tượng với hết suy đoán này đến
ước đoán khác. Nào là mượn quốc danh Đại Việt, nước Đô Hộ rồi sau “co rút” bài
ngoại “trở về dân tộc” với tên nước là Đại Cồ Việt! Trong khi đó lại phớt lờ đi mấy chữ rõ mồn một
trên viên gạch Hoa Lư “Đại Việt quốc…” ở thời Đinh – Tiền Lê hay sự thật là Tống sử
chẳng hề nhắc đến Đại Cồ Việt.
11. “Đã có chứng cớ về tiếng Việt, tiếng bản xứ, “Man ngữ” ở cuối thế kỷ
VIII khi Trương Tịch gặp Nhật Nam tăng, ở thế kỷ X khi Tống Cảo nghe Lê Hoàn
hát. Vậy thì chữ “cù” ở quốc hiệu không thể chối cãi kia, mang tính lạc lõng, tất
không thể là chữ Hán mà là chữ Nôm, của một âm tiếng Việt viết ra Quốc ngữ ngày
nay, là “cồ”. ” [TC Xưa & Nay số 386 trang 34 , cột 2]
Đúng là thi sĩ đời Đường là Trương Tịch
đã từng gặp
một nhà sư ở Nhật Nam
và đã làm bài thơ Sơn trung tặng Nhật Nam tăng,trong đó có câu “Man ngữ vấn thùy gia?”:
Tiếng người phương Nam
hỏi nhà ai? Và trong Tống sử (Giao Chỉ truyện) đã từng ghi chép việc
sứ thần nhà Tống là Tống Cảo đi sứ Giao Châu và thuật lại sự kiện vua Lê Hoàn tự mình hát bài “khuyến tửu ca” (khúc ca mời rượu). Dĩ
nhiên Lê Hoàn đã hát bằng tiếng bản xứ nhưng đó là tiếng Việt chứ không phải
là chữ quốc âm (Nôm), không thể đánh
đồng. Người Việt thời Đinh – Tiền Lê dùng chữ Hán để ghi chép, truyền đạt ở
trong nước hay đối ngoại nhưng vẫn nói năng, hát hò bằng tiếng mẹ đẻ là sự thật
của lịch sử. Cho đến nay, đa số các nhà nghiên cứu chữ Nôm vẫn thận trọng cho
thời điểm ra đời của chữ Nôm chỉ khoảng thời Lý – Trần, còn vào thế kỷ X đáng
tiếc là chưa có bằng chứng xác thực. Về chữ Nôm CỒ瞿 trong quốc hiệu nhà Đinh, hiện vẫn là một vấn
đề còn đang tranh luận, chưa có một kết luận khoa học nên không thể võ đoán như
TCĐT là “tất không thể là chữ Hán mà là chữ Nôm, của một âm tiếng Việt viết ra
Quốc ngữ ngày nay, là “cồ””
12. “Không phải của ông Huỳnh Tịnh Của bịa đặt sai lầm, đó là chữ “cồ”
với nghĩa to, lớn thường được dẫn giải chứ không phải là nói hùa theo HTC. Đó
là dấu vết của việc ghi nhớ khi học một thứ chữ ngoại quốc (Hán), từng hiện diện
trong sách giáo khoa xưa. Thiên /trời, địa/đất…Lối ghép chữ Hán+Nôm sẽ chuyển
qua Nôm+Hán trong các từ sông Hồng Hà, núi Hồng Lĩnh còn tồn tại.” [TC Xưa
& Nay số 386 trang 34 , cột 2]
Ông TCĐT chỉ loanh quanh, không vượt khỏi
luận giải của nhà Khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu, nói cách khác lập luận của ông
không khác gì NTH: “Cồ” là một từ tiếng
Nôm cũng chỉ sự to lớn... Căn cứ vào chữ in trên những viên gạch xây thành Hoa
Lư thì phải chăng, quốc hiệu thời Đinh – Tiền Lê … là Đại Việt (cả hai từ đều
là chữ Hán) nhưng trong dân gian thì vẫn phổ biến thói quen nói ghép hai từ Hán
– Nôm đồng nghĩa nên gọi là Đại Cồ Việt (tương tự như từ: bông hoa)” thì có
gì là mới và có giá trị thuyết phục hơn? Sau đây là phê bình của tôi: “theo ý chúng tôi TS Nguyễn Thị Hậu đã không
thoát khỏi quỹ đạo “chữ Nôm 瞿cồ (lớn) có từ thời Đinh” như chúng
tôi đã phê bình ở phần trên, do đó cách lý giải: vì Cồ = Lớn = Đại nên Đại Cồ
là một kiểu nói bình dân do đó Đại Cồ Việt = Đại Việt cũng không có
hy vọng tiến gần sự thật.” [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Vấn đề quan trọng
nhất chính là làm sao chứng minh khoa học tiếng “cồ” có nghĩa là to, lớn có từ
thời Đinh cũng như chữ Nôm CỒ瞿 có khả năng ghép vào quốc hiệu nhà Đinh?
Thật tiếc là đến nay, kể cả TCĐT, chưa một ai thành công.
Lời kết:
Sau khi đọc bài viết của nhà sử học Tạ Chí
Đại Trường, tôi có cảm tưởng tác giả nhân cơ hội phê bình, phản bác bài viết của
tôi là nhằm đưa ra kiến giải riêng theo khuynh hướng bảo vệ chữ Nôm CỒ瞿trong quốc hiệu nhà Đinh với
niềm tự hào “khác thường” của một nhà sử học: “Vậy coi như tôi đã giải quyết xong chuyện Đại Cồ Việt. Còn bằng lòng
hay không là chuyện của người khác.” [TC Xưa & Nay số 386 trang 34 , cột
2, dòng cuối], thú thật cá nhân tôi chẳng thấy tác giả đã thật sự “giải quyết
xong” một cách khoa học, thành công với sức thuyết phục cao về vấn đề quốc hiệu
Đại Cù (Cồ) Việt.
Vấn đề vẫn còn đó, đang mời gọi mọi
người quan tâm, yêu thích sử học, Hán Nôm tim hiểu, khám phá, góp phần giải mã
bí ẩn của lịch sử.
Biên
Hòa, ngày 09 tháng 9 năm 2011
Cho đến nay tôi vẫn xác định kỷ Đại Việt bắt đầu với Ngô Quyền, cho dù bằng chứng “văn tự” xác đáng nhất phải từ đời Đinh. Để chặt chẽ và chính thống về tư liệu, tôi đồng tình với học giả Đinh Văn Tuấn lấy quốc hiệu nhà Đinh là “Đại Việt” chứ không phải là “Đại Cồ Việt”. Tư liệu in trên gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” rõ ràng là chính thống và sớm hơn so với ghi chép Đại Cồ Việt sau này.
Trả lờiXóaVâng, Ngô Quyền với chiến thắng Bạch Đằng có thể khởi đầu độc lập và mở ra kỷ Đại Việt nhưng nhà Ngô mệnh yểu và vì đất nước chưa thống nhất, nên sử gia xưa đã lấy triều Đinh làm kỷ chính thống. Xin cảm ơn anh đã đồng tình với ý kiến của tôi.
Xóa