Nhận thức
mới về Quốc hiệu nhà Đinh
Đinh Văn Tuấn
Theo chính sử, Quốc hiệu Đại Cồ Việt 大瞿越 do vua Đinh Tiên
Hoàng đặt ra vào năm 968 sau khi thống nhất đất nước, đóng đô ở Hoa Lư, thiết lập
triều chính, đây chính là quốc hiệu chính thức đầu tiên của dân tộc Việt, của một
triều đại chính thống sau khi giành lại độc lập, tự chủ kết thúc giai đoạn 1000
năm đất nước bị Trung Hoa đô hộ. Quốc hiệu Đại Cồ Việt từ trước đến nay là một trong những bí ẩn của lịch sử gây
nhiều tranh cãi, đã từng có rất nhiều ý kiến, giả thuyết được đưa ra, nhưng cho
đến nay vẫn chưa có một giả thuyết nào có sức thuyết phục cao, xác đáng theo tinh thần khoa học. Một bài toán hiểm hóc vẫn
chưa có lời giải vì thế chúng tôi đã viết
bài khảo luận này để cố gắng
thử đưa ra một cách giải quyết vấn đề
theo một nhận thức mới có khả
năng tiến gần sự thật hơn.
I. Khảo sát về chữ cồ瞿trong Quốc hiệu nhà Đinh
A. Cồ瞿 là chữ
Nôm?
Có lẽ người đầu tiên cho chữ cồ瞿trong Quốc hiệu Đại Cồ Việt大瞿越của nhà Đinh là chữ Nôm xuất hiện
vào thế kỷ X là học giả Sở Cuồng Lê Dư đã viết trong Chữ Nôm với Quốc ngữ [Nam Phong
Tạp Chí. Tập 30. Số 172. Năm 1932, (tr 496)] như sau: “ Xét ra thứ chữ Nôm có chép ở trong sử, bắt đầu từ chữ Bố Cái Đại Vương là một
chứng cứ tượng ra trước nhất, và đến đời Đinh, cũng dụng thứ chữ Nôm, đặt tên
nước là Đại Cồ Việt” rồi đến Trần Văn Giáp.trong Lược
khảo về nguồn gốc chữ Nôm [Nghiên cứu lịch sử 127. 1969], Đào Duy Anh trong Chữ Nôm. Nguồn gốc – cấu tạo -
diễn biến [NXB Khoa học Xã
hội 1975] và Lê Văn Quán
trong Nghiên cứu về chữ Nôm [NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội 1981], Nguyễn Khuê
trong Những vấn đề cơ bản của chữ Nôm
[NXB Thành Phố Hồ Chí Minh 1999]v.v.. các học giả và nhà nghiên cứu Hán Nôm trên
đều cho rằng chữ “瞿” là chữ Nôm đọc là “cồ” (nghĩa là to,
lớn) và khẳng định chữ Nôm đã xuất hiện vào thời Đinh, thế kỷ X với chữ cồ瞿như một chứng tích quan trọng. Trước năm 1932 qua thư tịch, quốc hiệu nhà
Đinh chưa thấy đặt thành vấn đề gì, có vẻ như đối với các nhà Nho xưa大瞿越là những chữ Hán rất quen thuộc
chứ không xa lạ như thời hiện đại. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến luận thuyết về
chữ瞿 trong quốc hiệu nhà Đinh là chữ Nôm có thể là do sự ngộ
nhận về chữ瞿gắn liền với âm Hán Việt là “cồ” khởi đầu từ học giả như Gustave
Dumoutier, viết theo âm Hán Việt là “Đại CỒ Việt” trong Etude historique et archéologique sur Hoa Lư. Première capitale de l'
Annam indépendante 1894 và các học giả tiếp theo viết chữ quốc ngữ thời kỳ đầu như
Phan Kế Bính với Nam Hải dị nhân liệt truyện [1912, Thanh
Niên tái bản 1999], Trần Trọng Kim trong Việt
Nam sử lược [1919, Trung Tâm Học liệu tái bản 1971], Đào Duy Anh với Giản Yếu Hán Việt từ điển. [Tiếng Dân.
Huế 1932] khiến cho các học giả, nhà
nghiên cứu Hán Nôm sau này đã
dựa vào để gán nghĩa cồ là to, lớn theo cách hiểu hiện đại, chẳng hạn như Đào Duy Anh đã từng
viết: “Cồ nghĩa là lớn... Trong Sử ký thấy
dùng từ cồ trong tên nước ở thời nhà Đinh là Đại Cồ Việt. Ngày nay ta cũng còn
thấy dùng chữ kép đại cồ lồ”[Chữ Nôm, sđd]. Thực ra thì chữ Hán瞿 xưa kia không phải được các nhà
Nho Việt đọc theo âm Hán Việt là “cồ” vì theo các bằng chứng chữ Quốc ngữ xưa
nhất như:
1- Cours d'histoire annamite/ Trương Vĩnh Ký. Saigon 1875 và bản Quốc
ngữ “ Tóm lại về sự tích các đời vua xứ Annam”
trong Manuel des écoles primaires ou
simples notions sur les sciences. A l’usage des jeunes élèves des écoles de
l’administration de la basse-cochinchine (Volume 1)/ Trương Vĩnh Ký. Saigon 1876.
2- Histoire ancienne et moderne de l'Annam, Tong-king et Cochinchine/
L'Abbé Adr. Launay. Paris
1884.
3- Contes et légendes Annamites – A. Landes. Saigon
1886.
4- L'empire
d'Annam et le peuple annamite / J. Silvestre (1889)
5- Lược biên Nam-việt sử-ký lịch
triều niên-kỷ. Tableau chronologique des Souverains de l'Annam/ Georges
Maspero. T'oung
Pao, Vol. 5, No. 1 (1894).
6- Đại Nam lịch đại ký niên. Chronologie
des souverains de l’ Annam/
Albert Schroeder. Paris
1904 (Kho Đông Dương - Thư
viện Quốc gia Việt Nam
http://dlib.nlv.gov.vn )
7- Đại Nam quốc lược sử - Alfred Schreiner biên soạn, Nguyễn Văn Nhàn dịch. Sài gòn
1905 và Abrégé
de l'histoire d'Annam / Alfred Schreiner, Saigon
1906.
8-
Annam et Indo-Chine Francaise/ Colonel E Diguet. Paris 1908.
9- Bụt sử lược biên thiệt truyện - Thuật sự tích và lời huyền diệu của Bụt
Gaudam( Cù Đàm Bụt) ở xứ Kapilavastu (ca duy la việt quốc)/ G. Ch Tran
Chanh phụng dịch. Sai Gon 1913 .
10- Nam Việt lược sử/ Nguyễn Văn Mại, Sai Gon 1919
Tất cả đều được phát âm và viết chữ Quốc ngữ qua sách in ra là “Đại
CÙ Việt” (hoặc Đại CỤ Việt), như vậy xét về thời gian, âm đọc “ CÙ ” có trước âm đọc “ CỒ
”, cho đến nay chưa thấy một bằng chứng chữ quốc ngữ nào đã viết quốc hiệu nhà
Đinh là “Đại CỒ Việt” trước dấu mốc năm
1875 như tài liệu của Trương Vĩnh Ký đã viết là “Đại CÙ Việt” (xem hình bên trái) nhưng chỉ có Gustave Dumoutier đến năm
1894 mới viết quốc hiệu nhà Đinh là “Đại CỒ Việt”. Xem trong tự vị
Dictionarium Anamitico-Latinum/ P.J. Pigneaux (1772-1773) (bản chép tay) thì âm “cồ”- từ Việt- được ký âm bằng chữ cù瞿(viết giản phần đầu) và âm “cù” -từ Hán- lại được viết là瞿 (viết giản phần đầu) nhưng bên dưới lại chính là chữ cù衢kèm theo nghĩa của nó, vậy Béhaine đã hiểu瞿 và 衢là một, (xem hình bên phải) và trong Dictionarium
Anamitico-Latinum của J.L. Taberd (1838) và Đại Nam Quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của (Sài Gòn 1895-1896) cả hai soạn
giả đã không dùng chữ瞿 nhưng lại dùng chữ 衢để ký âm từ cồ, chứng tỏ nếu đương thời chữ Hán 瞿có
âm Hán Việt là “cồ” dĩ nhiên sẽ lấy ngay瞿 để ghi âm CỒ
và sẽ không cần dùng chữ cù衢để ký âm “cồ” nữa, nghĩa là xưa 瞿,衢 đều có âm Hán Việt là CÙ nên có thể dùng chữ nào cũng được để ký âm, thêm một
bằng chứng nữa từ Đại tự điển chữ Nôm [NXB
Văn Nghệ TPHCM 1999] của cụ Vũ Văn Kính thì âm “cồ” có 2 tự dạng瞿(viết giản phần đầu),衢 đều
dựa vào âm đọc “cù” của 瞿và một chữ Nôm hài thanh có tự dạng kết hợp gồm瞿(ý) +古 (âm), đáng lưu
ý ở phần chỉ âm đã dùng古 cổ để định âm, phải đọc là cồ chứ không phải là cù瞿, như vậy rõ ràng chữ Hán 瞿xưa
có âm Hán Việt là “cù”chứ không phải là “cồ”, có thể
nguyên nhân dẫn đến cách đọc biến đổi từ CÙ sang CỒ chính là do sự ngộ nhận của
các học giả tiền bối khi tra cứu các tự vị xưa về
âm và nghĩa của chữ瞿 trong 3 chữ Quốc hiệu 大瞿越 (có
khi do tâm lý muốn tránh trùng âm với “cù” trong cù lần, con cù dễ làm hạ thấp quốc hiệu) để rồi bắt
đầu xuất hiện một định kiến về chữ瞿 đọc là CỒ như cách đọc Hán Việt cũng là chữ Nôm 瞿 có âm đọc là CỒ với nghĩa “to, lớn”
và sau này hiện diện đường hoàng trong Giản
yếu Hán Việt tự điển (1932) của học giả Đào Duy Anh như sau: CỒ 瞿,大瞿越
Đại Cồ Việt. Quốc hiệu nhà Đinh là大瞿越đã làm đau đầu các học giả, sử
gia về cả nghĩa Hán lẫn nghĩa Nôm! Nhưng
nếu xưa tiền nhân chỉ đọc大瞿越là Đại CÙ Việt thì chữ
cù瞿quả thật gây lúng túng, khó hiểu đối với hậu thế vì
chữ Hán cù瞿với các nghĩa chính, thông thường của nó khi ghép vào Đại Cù Việt大瞿越lại có vẻ như chẳng
thích hợp, xứng đáng với quốc hiệu một nước, nhất là trong tình hình chữ Hán bị
phế bỏ, thì chữ 瞿 “cổ quái” càng trở nên bí hiểm gây ra nhiều tranh luận, suy
đoán, ngược lại nếu đọc大瞿越là Đại CỒ Việt lại có phần dễ hiểu hơn với cách hiểu cồ có nghĩa là to, lớn dù Hán Nôm “giao
duyên”, dù trùng nghĩa : to – lớn đi nữa,
điều quan trọng là vào thời Đinh, chữ Nôm đã xuất hiện với chữ Cồ瞿trong Đại Cồ Việt 大瞿越!
Sự thực 瞿 có phải là một chữ Nôm? Trước hết
xét về mặt văn bản, 3 chữ 大瞿越xuất hiện chính thức trong bộ sử lớn
triều Lê là Đại Việt sử ký toàn thư (nguyên
bản chữ Hán xem trong nomfoundation.org và bản dịch của
Viện KHXH 1985-1993, NXB KHXH Hà Nội 1993) được biên soạn bằng Hán văn ở Bản Kỷ, Kỷ Nhà Đinh, Tiên Hoàng Đế với đoạn : “建國號大瞿越: đặt quốc hiệu là Đại Cù Việt” và
theo sau 3 chữ大瞿越soạn giả không hề ghi chú gì đặc biệt liên quan đến chữ瞿 (xem hình bên phải) và nếu nó là một chữ Hán dùng
theo cách hiểu người Việt với âm và nghĩa khác Hán dĩ nhiên sẽ được chú giải cẩn thận. Trong các văn bản chữ
Hán xưa vẫn thường thấy có những ghi chú đặc biệt đối với những chữ Hán nào đó có thể gây khó hiểu như trong ĐVSKTT, Bản
kỷ, Lý Anh Tông đã từng ghi chép như sau
“Điện Tiền Vũ ”Cứt” chứ chẳng phải “Đáí”!
(chú giải): Phương ngôn nói chữ Cát Đái là cứt đái” hay trong Lĩnh Nam chích quái (Đinh Gia Khánh chủ
biên NXB VH 2001), ở Truyện Phùng Hưng Bố Cái Đại
Vương với chú giải về 2 chữ “Bố Cái”: “Tiếng địa phương gọi cha là bố, gọi mẹ là
cái cho nên có tên ấy” qua đó, có thể xác nhận chữ 瞿trong大瞿越nguyên thủy chỉ là một chữ Hán thuần túy và hiển
nhiên không phải là chữ Nôm. Xét về mặt ý nghĩa, trong tiếng Việt âm “cồ” thời
cổ chưa bao giờ được hiểu theo nghĩa to, lớn
như trong các tài liệu tự điển, tự vị xưa như sau đây đã chứng minh:
1- Dictionarivm
Annnamiticvm Lvsitanvm, et Latinvm / Alexandro de Rhodes
(1651) – bản
dịch Thanh Lãng – Hoàng Xuân Việt – Đỗ
Quang Chính. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 1991: Cồ, gà cồ: Con gà mái loại cao lớn, con gà đực
loại rất to lớn. Loại gà rất thích hợp để chiến đấu. Gà chọi, cùng một nghĩa.
2- Dictionarium Anamitico-Latinum / P.J. Pigneaux (1772-1773): 瞿Cồ, gà cồ: thứ gà to dùng để chọi. (bản dịch Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên) và Dictionarium Anamitico-Latinum / J.L.
Taberd (1838). Cồ衢, gà cồ : loại gà to dùng để chọi.
3- Dictionarivm Anamitico-Latinum/ J.S Theurel.Ninh Phú 1877: Cồ, gà cồ : loại gà to dùng để chọi (chữ
Latinh tạm dịch theo Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên – sđd -)
4- Đại Nam Quấc âm tự vị
.Tom I. A-L/ Huình Tịnh Paulus Của. Sài Gòn 1895:
Cồ衢: To, lớn - gà cồ: gà to xương, cao lớn.
5- Dictionnaire
Annamite-Français / J.F.M. Génibrel (1898): 衢Cồ. Gà
cồ: gà chọi.
Cồ hung: quá đỗi. (Tạm dịch)
6- Việt
Nam tự điển / Hội khai trí tiến đức, Hà Nội 1931 (Mặc Lâm tái bản 1968) : Cồ . Gồ lên, cộm lên . (Đại Cồ) Việt tên nước ta về đời nhà
Đinh. Cồ Đàm tên Phật Thích Ca.
Như vậy đa số
các từ thư trên đều chỉ ghi nhận ý nghĩa chính của 2 chữ gà cồ là tên, danh từ chỉ một loại gà có tên gọi là “cồ”
với thân hình cao lớn, giống gà chọi nhưng
chỉ đến ĐNQÂTV của Paulus Của (xem hình
bên phải) mới thấy lần đầu tiên âm “cồ” được giải thích là to, lớn
và có thể nói Huỳnh Tịnh Của đã thiếu chính xác khi định nghĩa cồ có nghĩa to, lớn vì nhà biên soạn tự vị đã không dẫn ra được một mục
từ nào khác thực sự có ý niệm to, lớn ngoài 2 chữ gà
cồ. Cũng theo P. Của,
ở mục từ Gà, gà trục: cùng nghĩa với gà cồ: gà to xương, cao lớn, vậy không lẽ từ “trục” cũng là “to, lớn”?
Đáng
ngạc nhiên nhất là VNTĐ (1931) lại không hề biết gì đến tiếng cồ có
nghĩa là to, lớn! Càng chứng minh cách hiểu cồ có nghĩa là to, lớn là một
ngộ nhận khởi đi từ Huỳnh
Tịnh Paulus Của và chỉ bắt đầu xuất hiện sau khi học giả Sở Cuồng Lê Dư từ
năm 1932 đã xác nhận 瞿
là chữ Nôm có trong quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cồ Việt 大瞿越, từ đó trở về sau đã trở thành một định kiến, ngộ nhận về chữ Nôm đã có
từ thời Đinh với chứng tích là chữ cồ瞿. Qua các tác
phẩm chữ Nôm xưa, cho đến nay chưa tìm thấy một chữ viết là瞿 ký âm cho tiếng cồ với nghĩa
chính xác là to, lớn. Theo Học giả
Đào Duy Anh trong Chữ Nôm (sđd) khi giải
thích 3 chữ “勉德瞿” có trong Hội thứ 7, Cư trần lạc đạo phú của vua Trần Nhân Tông: “Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo; Mến đức
Cồ 勉德瞿, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay” đã cho rằng瞿 là chữ Nôm có
âm là cồ và “Cồ nghĩa là lớn” nhưng
thật ra ở bài phú vua nhà Trần chữ 瞿trong “勉德瞿” là một chữ Hán đọc chính xác theo âm Hán Việt xưa là CÙ chỉ mang sắc thái Phật giáo, CÙ ở đây
chính là tên viết tắt của Cù Đàm 瞿曇, danh xưng Phật Thích Ca hay tượng trưng cho đạo
Phật và rất phù hợp với thể đối của phú
: Vâng ơn Thánh,… hướng về đạo đức Nho giáo và Mến đức Cù,…hướng về giáo lý nhà Phật (Học giả Hoàng Xuân Hãn, Lê Mạnh Thát cũng đã từng
xác nhận Mến đức Cù (Cồ) là Mến đức Cù (Cồ) Đàm), đây cũng chính là một thí dụ rõ ràng về sự ngộ
nhận từ Hán sang Nôm qua cách hiểu: 瞿 đọc là cồ theo nghĩa to, lớn. Tiếng cồ không thấy trong tục ngữ,
ca dao … tuy trong dân gian cũng thấy nói “ lớn
cồ đầu” (lúc nhỏ tôi vẫn nghe mẹ tôi mắng “lớn cồ đầu rồi mà…”) hay các tên gọi động vật như dế cồ, vịt cồ nhưng chắc hẳn chỉ là sản
phẩm của cách hiểu ngộ nhận cồ là lớn - đầu thế kỷ XX - như trên đã chứng minh.
Tóm lại CỒ theo các tài liệu xưa chỉ là một danh từ, tên
gọi của một loài gà chọi có thân hình to lớn, chứ chưa bao giờ thực sự được hiểu
như một tính từ có ý nghĩa là to, lớn. Cho nên nếu hiểu Đại Cồ Việt
theo kiểu: nước Việt to - lớn dĩ nhiên
là một cách hiểu sai lầm khi tạo ra một lối ghép chữ nửa Hán nửa Nôm trùng
nghĩa ngây ngô, xa lạ với cấu trúc tiếng Việt vì đúng ra - nếu hiểu cồ là lớn – Quốc hiệu sẽ phải
là (Đại) -Việt Cồ hay (Đại) Việt – Cồ chứ không phải là (Đại) - Cồ
Việt nhưng trong lịch sử ta chưa bao giờ nghe nói đến tên nước Đại Việt Cồ hay
Việt Cồ. Theo tình hình nghiên cứu về nguồn gốc chữ Nôm hiện nay, đa số các học
giả, nhà nghiên cứu Hán Nôm trong và ngoài nước đều thận trọng dừng lại ở dấu mốc
khai sinh chữ Nôm vào khoảng thời Lý – Trần mà thôi. Chính vì thấy
cách hiểu chữ cồ瞿(lớn) là không hợp lý, nên học giả
Hoàng Xuân Hãn đã cố gắng đi tìm một cách hiểu khác như đã viết trong Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần Lê (phần chú thích(8) trang 1092) [La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập III,
NXB Giáo Dục 1998]: “Lần
thứ hai trong quốc sử thấy chữ mượn âm là quốc hiệu đời Đinh: Đại Cồ Việt大瞿越, chữ Cồ chắc là từ Việt, người ta thường hiểu là lớn. Nhưng ý lớn đã chứa
trong chữ Đại rồi. So sánh những âm Cá, Cổ, Cự, Khả, Kẻ thì thấy ý nghĩa âm Cồ
là xứ có lẽ hợp lý hơn” Nhưng thực ra không thấy bằng chứng văn tự (Nôm, Quốc
ngữ) nào sự ghi nhận cồ là xứ cả. Trước và sau nhà Đinh cũng chưa hề
thấy từ cồ được ghép vào tên nước, quan
trọng hơn là sự thật, theo phát hiện của chúng tôi - sẽ trình bày phần sau - nhà
Đinh chưa bao giờ có danh xưng nước là Đại Cồ Việt nhưng chỉ thông dụng danh
xưng nước là Đại Việt mà thôi và vì thế mọi giả thuyết bám vào Đại Cù Việt để
chứng minh chữ Nôm cồ瞿(lớn, xứ) có từ đời nhà Đinh, theo
quan điểm của chúng tôi là thiếu giá trị thuyết phục.
B.
CÙ瞿 là chữ Hán:
Như
vậy chữ 瞿 trong Quốc hiệu nhà Đinh hiển nhiên
không thể là chữ Nôm nhưng chính xác chỉ
là một chữ Hán từ nguyên thủy và Đại CÙ Việt大瞿越sẽ chỉ được hiểu
đúng theo ý nghĩa Hán văn mà thôi, theo Hán ngữ đại từ điển漢語大詞典. Quyển 7 (tr 1261) [La Trúc Phong
chủ biên. Hán Ngữ Đại Từ Điển Xuất Bản Xã. 1991]:
瞿 (1) [qú《廣韻》其 俱切,平虞,羣.] (Âm Hán Việt: cù)
1- 古兵器名.戟属.(Một loại binh khí cổ như cái kích). 2. 谓植物根、叶旁生横出. (Thực vật) . 3. 瞿昙氏的省称. 亦指佛教或与佛教有关的事物.
(Gọi tắt tên họ -của Phật- là Cù Đàm, chỉ
Phật giáo ). 4. 通“衢”.(Dùng
thông với衢cù). 5. 姓. (Tên họ)
瞿 (2) [ jù 《廣韻》九遇切,去遇,見.] (Âm Hán Việt: cố)
1. 惊貌;惊视貌. (Vẻ nhìn kinh sợ) . 2. 惊惧. (Sợ hãi)
瞿,瞿地:四通八的地方.瞿,通“衢.银雀山汉墓竹簡《孫子兵法.九地》“有瞿地,有重地”按,通行本作“衢地”(địa
điểm thông suốt mọi bề, 瞿cù dùng thông với “衢”. Trong
Tôn Tử binh pháp (trúc giản ở mộ Ngân
Tước Sơn Hán), thiên Cửu địa ghi: “có thế đất Cù Địa, có thế đất Trọng Địa”
theo đó, (瞿地)vẫn thông hành viết là “衢地”.
Trong Hán Việt tự điển (tr 432) của Thiều Chửu
[Đuốc Tuệ. Hà Nội 1942], 瞿Cù:
1. Thấy mà nao lòng, nhìn thấy mà rật mình (ngơ ngác), 2. Nhìn
như vọ, 3 . Một thứ đồ binh như cái
kích. Cũng đọc là chữ cú.
Qua hai từ thư trên ta nhận thấy 瞿không có âm đọc phiên thiết nào là
cồ và với tất cả
các nghĩa của cù瞿,sau khi loại bỏ các ý nghĩa không phù hợp khi ghép với quốc hiệu nhà
Đinh, theo ý chúng tôi chỉ thấy 2 nghĩa tương đối có khả năng phù hợp với Quốc
hiệu Đại Cù Việt đó là :
1. Cù瞿
là tên gọi tắt của Cù Đàm 瞿曇 - tên họ Phật Thích Ca - tượng trưng cho Phật giáo và Đại Cù Việt là nước Việt lớn theo đạo Cù Đàm - Phật giáo -
2. Xưa瞿 và 衢dùng qua lại lẫn nhau (có thể dẫn thêm Khang Hy tự điển [Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1997]):“音衢.義同”(âm cù衢, nghĩa đồng với).
Chữ Hán cù衢, theo Nhĩ Nhã, Thích Cung:“四達,謂之衢”, Thuyết Văn : “四達謂之衢”, Khang Hy tự điển:“四達道也”
và Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển Thiều Chửu cũng đều định
nghĩa là con đường thông suốt bốn ngả, vậy
Đại Cù Việt là nước Việt lớn như con đường thông suốt bốn ngả .
Nếu Đại Cù Việt là nước Việt lớn theo
đạo Cù Đàm xem ra cũng phù hợp với sử sách nói thời Đinh rất sùng mộ đạo Phật
và ý nghĩa này đã từng được một số nhà nghiên cứu tán thành như học giả J. De
Francis, Giáo sư Nguyễn Khắc Kham, nhà nghiên cứu An Chi, nhà nghiên cứu Hán
Nôm Trần Trọng Dương (theo viethoc.org/phorum)…Nhưng xét kỹ lại
không hợp lý bởi không thể dựa vào tình hình sùng bái đạo Phật ở thời Đinh để
quả quyết Đinh Tiên Hoàng đặt Quốc hiệu chứa đựng chữ Cù (Đàm) tượng trưng cho
Phật Giáo, điều này là có thể có và cũng
có thể không. Người ta quên rằng theo chính sử Đinh Tiên Hoàng đã từng
phong cho Ngô Chân Lưu làm Tăng thống, Trương Ma Ni làm Tăng lục và đồng thời cũng phong cho Đạo sĩ Đặng
Huyền Quang chức Sùng chân uy nghi
chứng tỏ thời Đinh ngoài Đạo Phật ra thì Đạo giáo cũng có tầm ảnh hưởng quan trọng
từ dân gian đến cung đình, có thể nói nhà Đinh sử dụng tôn giáo như một kế sách
chính trị nhằm an dân và thu phục nhân tâm, hơn nữa vua Đinh đã dùng các cực
hình như đặt vạc dầu ở trước điện, cũi hổ để trừng trị tội nhân ngay trước mắt
quần thần, các tăng lữ sùng kính Phật giáo là một nghịch lý vì những chuyện này trái với giáo lý từ bi hỉ xả
của đạo Phật. Do vậy khó có thể cho nhà Đinh tôn đạo Phật là Quốc giáo được. Thực
ra Phật giáo thời Đinh có khuynh hướng nặng về Mật Tông hơn là Thiền Tông như các di vật khảo cổ
là các kinh tràng bằng đá được khai quật
ở Hoa Lư trong đó khắc bài thần chú Phật Đỉnh
Tối Thắng Đà La Ni (Usnisavijaya dharani), một thần chú phổ biến của Mật
tông đã chứng minh, trong bài viết Về
tín ngưỡng cột kinh Phật đỉnh Tôn Thắng ở Thế kỷ X GS. Hà Văn Tấn đã nhận định: “Như vậy, những cột
kinh tìm thấy ở Hoa Lư là biểu hiện một tín ngưỡng của Mật giáo Trung Quốc. ảnh
hưởng của nó đã lan đến Triều Tiên. Và với những phát hiện ở Hoa Lư, ta thấy
tín ngưỡng này đã phổ biến ở Việt Nam vào thế kỉ X.” (nguồn: daitangkinhvietnam.org/) và khi tìm hiểu sâu hơn, lại thấy trong kinh điển,
giáo lý, ngôn từ của Mật giáo hầu như không dùng đến tên gọi Cù (Đàm) nhưng thường hay dùng nhất là các tôn hiệu, danh xưng như Phật, Thích Ca Mâu Ni, Bột (Đà) hay Thế Tôn, Như Lai... cho nên hiện tượng Cù (Đàm) xuất hiện trong Quốc
hiệu Đại Cù Việt của nhà Đinh theo tinh
thần Mật giáo là một điều bất hợp lý! Theo cư sĩ Huyền Thanh, một nhà phiên dịch
kinh tạng Mật Tông của website mattong.wordpress.com
đã nhận xét như sau: “Trong Kinh Điển của hệ Nam Truyền thường nhắc đến tên Cồ
Đàm qua các tên gọi là: Đức Phật Cồ Đàm, Sa Môn Cồ Đàm... Hệ Đại Thừa dùng
danh xưng Cồ Đàm để chỉ cho lúc Đức Phật còn là Bồ Tát. Kinh Điển của Mật Giáo thì không thấy dùng danh xưng Cồ Đàm Cả hai
hệ này thường dùng Hồng Danh Thích Ca Mâu Ni ('Sàkya-muni) để chỉ ĐứcPhật”(trích
thư trao đổi của chúng tôi và Huyền Thanh) Lịch sử đã chứng minh ở Trung
Hoa thời nhà Đường mặc dù cực thịnh về
Phật giáo nhưng về chính trị xã hội, giáo dục
lại chịu ảnh hưởng của ý thức hệ
Nho giáo và cũng chưa thấy một nước nào ở Châu Á tôn đạo Phật vào hàng quốc
giáo đã đặt tên nước mang tên họ, tôn hiệu Phật Thích Ca trước hay sau nhà Đinh. Như
vậy có thể kết luận, theo khuynh hướng Phật giáo để lý giải Đại Cù Việt là một
giả thuyết thiếu khoa học.
Ngược lại, nếu Đại Cù Việt
là nước
Việt lớn như con đường thông suốt bốn ngả
theo khuynh hướng chính trị xã hội lại tỏ ra thuyết phục, hợp lý hơn hẳn.
Theo sử sách, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp
tan loạn 12 sứ quân, được quần thần xưng là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đóng đô ở
Hoa Lư, thiết lập triều nghi mở ra một triều đại chính thống đầu tiên trong lịch
sử (Đại Việt sử ký toàn thư đặt nhà Đinh mở đầu Bản Kỷ), một đất nước độc
lập, tự chủ sau 1000 năm lệ thuộc Trung Hoa, nước
Việt thống nhất, hòa bình giờ đây đã hanh thông, là nơi (đường lớn) thông tứ phương, thể hiện khát vọng sâu
xa của một bậc đế vương sau khi thông nhất sơn hà từ đó làm cho nước Việt ngẩng cao đầu, nhìn ra
thế giới rộng mở hơn, Đại Cù Việt có thể còn
ẩn náu một khát vọng mở rộng đất đai biên cương trong hào quang chói lọi của vị
Vạn Thắng Vương. Sử gia Lê Văn Siêu vào năm 1964 đã từng viết “Đại Cồ Việt có nghĩa là nước
Việt rộng lớn trông suốt cả bốn cõi hay tám cõi (bát hoang) theo lối hiểu ngày
xưa (*), ấy là cái cao vọng của người không những muốn thống trị mà còn muốn
bành trướng thế lực ra tám cõi nữa”
[Việt nam văn
minh sử cươngVăn minh Đại Việt. Nxb Thanh
Niên, tái bản 2004, tr. 55] với lời chú giải (*): Đúng ra phải đọc là CỘ, không đọc là CỒ . Khang Hy tự điển chua cả
2 âm CỘ và CỒ và cắt nghĩa là một chỗ trông thẳng ( trừng thị ). Thiên Nam ngữ
lục bản chép tay của trường Viễn Đông bác cổ chép : "Nước xưng Đại Cộ nối
dời..." theo sử gia
họ Lê đây là cách hiểu của nhà Nho xưa nhưng
đáng tiếc là ông đã giải thích sai về chữ cù瞿, Khang Hy Tự Điển không
có chú âm nào là CỒ hay CỘ mà chỉ có CÙ, CỤ, CÂU, về nghĩa thì "Trừng thị"
là trợn mắt trông thẳng chứ không phải là một chỗ trông thẳng như Lê Văn Siêu
hiểu, người ta đã đã không chú ý đến chữ Hán cù瞿 xưa dùng thông với 衢cù như Khang
Hy tự điển đã ghi nhận, sử gia Lê Văn Siêu cũng vậy, ông đã hiểu chữ瞿 cù với nghĩa “một chỗ trông thẳng” để gượng ép giải
thích cách hiểu của cổ nhân: “Đại Cồ Việt có nghĩa là nước
Việt rộng lớn trông suốt cả bốn cõi hay tám cõi (bát hoang)” nhưng thật ra cần phải hiểu 瞿=衢cù và 3 chữ大瞿越sẽ là 大衢越, như vậy quốc
hiệu Đại Cù việt
của nhà Đinh mới đúng là có nghĩa như trên. Dù sao,
thông tin của sử gia Lê Văn Siêu về “lối
hiểu của người xưa” đã trở thành một chứng cứ cần thiết cho lập luận thiên
về ý nghĩa chính trị xã hội.
II. Sự khai sinh của quốc hiệu大瞿越ĐẠI
CÙ VIỆT qua thư tịch xưa:
Trong số những tài liệu chữ Hán xưa
nhất còn lại của Việt Nam như (Đại)Việt sử
lược, An Nam chí lược, Lĩnh Nam chích quái, Việt Điện u linh, Thiền uyển tập
anh hoặc trong các di vật khảo cổ (bia đá, chuông đồng, gạch xây…) và kể cả
thư tịch Trung Quốc thời Tống cũng đều
không thấy ba chữ 大瞿越 Đại Cù
Việt, danh xưng của nhà nước thời Đinh, đáng chú ý là ĐVSL khi viết về Lý Bí (Nam
Việt Đế ) vẫn ghi chép về quốc hiệu nhà Tiền Lý là Vạn Xuân nhưng đến nhà Đinh
dù đã ghi chép khá đủ về Đinh Bộ Lĩnh nhưng lại thiếu sót một sự kiện quan trọng
là không biết gì đến quốc hiệu Đại Cù Việt được vua Đinh Tiên Hoàng đặt ra như
ĐVSKTT đã ghi chép! Nhưng không phải chỉ ĐVSL đến ANCL khi ghi chép về
nhà Đinh cũng không nói đến và đến cả LNCQ, Đinh
Tiên Hoàng ký (sđd) dù soạn giả đã ghi chép kỹ về hành trạng Đinh Bộ Lĩnh từ
thơ ấu đến khi làm Hoàng đế, đóng đô ở Hoa Lư, thiết lập triều nghi…thế nhưng lại
tuyệt nhiên không biết gì đến quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt! Một sự lãng quên, vì sơ xuất thật phi lý đã xảy ra
trong các tài liệu xưa trước ĐVSKTT, quan trọng nhất là lại xảy ra trong chính
LNCQ, một tập truyện ghi chép các truyện
tích truyền khẩu xưa chứng tỏ ngay cả trong ký ức dân gian xưa, trong truyền
thuyết truyền miệng từ đời này sang đời khác đã vắng bóng 3 chữ Quốc hiệu nhà
Đinh là Đại Cù Việt và càng chứng minh bản chữ Hán LNCQ còn lại (ký hiệu
A1752- TVKHXH) đã được viết ra trước ĐVSKTT vì nếu viết sau chắc chắn soạn giả
sẽ bổ sung quốc hiệu Đại Cù Việt vào
truyện Đinh Tiên Hoàng rồi. (Trong Dư Địa
Chí do Nguyễn Trãi biên soạn cũng thấy nói đến quốc hiệu Đại Cù Việt nhưng vì sách này thuộc bản
khắc in sau ĐVSKTT và bị sửa chữa nhiều nên chúng tôi không lấy làm chứng cứ) Tình
hình tài liệu chữ Nôm trước ĐVSKTT cũng thế, không tim thấy quốc hiệu Đại Cù Việt nhà Đinh trong thơ văn chữ
Nôm. (Tuy trong Thiên Nam ngữ lục, câu 4102: "Nước xưng ĐẠI CÙ nối trời, cũng
thấy chữ “瞿cù” trong tên nước nhà Đinh nhưng theo các nhà nghiên cứu Hán Nôm
thì sách này có niên đại khoảng Lê -Trịnh nên cũng chỉ xuất hiện sau ĐVSKTT). Tài liệu
duy nhất ghi chép về quốc hiệu nhà Đinh là大瞿越 Đại Cù Việt chính là bộ Đại
Việt sử ký toàn thư (Hiện nay còn lưu lại bản khắc in mộc bản Nội
Các Quan Bản niên hiệu Chính Hoà
thứ 18, triều Lê Hy Tông, năm 1697 chúng ta mới thấy quốc hiệu nhà Đinh lần đầu
tiên được khắc in trong đoạn văn sau: Bản
Kỷ. Đinh Kỷ. Tiên Hoàng Đế: “戊辰,元年(宋開寶元年)帝即位.建國號大瞿越: Mậu Thìn, năm
thứ I [968], (Tống Khai Bảo
năm thứ I) Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cù Việt”. ĐVSKTT đã căn cứ vào tài liệu thành văn,
truyền tích nào để khẳng định nhà Đinh vào năm 968 đã đặt quốc hiệu là Đại Cù Việt? Như trên đã khảo sát các
nguồn tài liệu trước ĐVSKTT, toàn bộ đều vắng bóng Đại Cù Việt nhưng chỉ thấy rải rác trong thư tịch, bia đá, chuông đồng
các danh xưng nước ta khoảng thời Triệu đến Lý, Trần với các tên nước như Nam Việt, Việt, Nam, Đại Việt, Cự Việt. Ngay chính thời Lý theo chính sử
với Quốc hiệu là Đại Việt nhưng trong văn khắc bia đá đời Lý cùng thời lại có 2
tấm bia khắc quốc hiệu khác nhau như Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh
tháp bi (大 越 國 當 家 第 四 帝 崇 善 延 齡 塔 碑) do Nguyễn Công Bật soạn, niên đại
Thiên Phù Duệ Vũ 2 (1121) và Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch
bi minh tự (鉅 越 國 太 尉 李 公 石 碑 銘 序), khuyết danh, niên đại khoảng
năm 1159 (theo Bước đầu tìm hiểu những giá trị của văn
bia Việt Nam đối với việc nghiên cứu tư tưởng chính trị xã hội nước ta thời phong
kiến. Trịnh Khắc Mạnh, Tạp chí Hán Nôm số 2-1998), và văn khắc chuông đồng 天福寺洪鐘銘文Thiên Phúc tự hồng chung minh văn, có đoạn khắc tên nước viết chử Hán là Cự Việt巨越 :”道行禪師緣化巨越國Thiền sư Đạo Hạnh đi lạc
quyên trong nước Đại Việt)- theo Thiền sư Từ Đạo Hạnh và văn khắc chuông
chùa Thiên Phúc – Nguyễn Hữu Vinh dịch và giới thiệu, Thích Thiện Niệm đính
chính, nguồn : trangnhahoaihuong.com – như vậy cần phải suy xét lại cho minh bạch
về quốc hiệu nhà Lý là Đại Việt có thực là một quốc hiệu chính thức, duy nhất được vua Lý Thánh Tôn vào năm 1054 đặt ra lần
đầu tiên như ghi chép của ĐVSKTT: Bản Kỷ. Lý Thánh Tông: “建國號曰大越: đặt
quốc hiệu là Đại Việt” ? – Hiển nhiên qua các chứng cứ xác thực từ các di vật
văn hóa trên lại dẫn đến phủ định chứ không phải là khẳng định! Không có một lý
do nào thỏa đáng để biện minh cho hiện tượng một nước có hai quốc hiệu chính thức.
Theo khảo sát của chúng tôi, hóa ra từ các triều đại kể từ Triệu đến Ngô, Đinh,
Tiền Lê và Lý thì ngoài quốc hiệu Nam Việt và Vạn Xuân đã ghi trong sử sách ra trong thư tịch và các di vật văn
hóa (bia, chuông) không thấy có một quốc hiệu chính thức nào khác dù là Đại Cù Việt của nhà Đinh hay Đại Việt của nhà Lý, bằng chứng quan trọng nhất là các
viên gạch khai quật ở di chỉ khảo cổ Hoa Lư - Ninh Bình và Hoàng Thành Thăng Long –Hà Nội có đóng in
dấu “大越国軍城塼Đại
Việt quốc quân thành chuyên” gạch xây thành quân sự của
nước Đại Việt (xem hình bên dưới)
được các nhà khảo cổ học VN xác nhận thuộc niên đại cuối thế kỷ X đầu
thế kỷ XI. Về gạch xây thành nhà Đinh, Giáo
sư Đỗ Văn Ninh đã nhận định qua bài viết Tìm
hiểu vài loại gạch cổ khai quật ở Ba Đình ”(Nguồn:http://www.quehuongonline.vn/VietNam/Home/Dat-nuoc-Con-nguoi/Hoang-thanh-Thang-
Long/2005/04/1E0A8257/) như sau: “Trong
Hội thảo khoa học về đề tài “Từ Hoa Lư tới Thăng Long”, tôi đã có dịp trình bày
một ý kiến: “Chỉ có nước Đại Việt, không có nước Đại Cồ Việt, ý kiến đó dựa vào
sự tồn tại khách quan của những viên gạch xây kinh đô có in quốc hiệu “Đại Việt”.
Không một người thợ làm gạch nào ở Hoa Lư cả gan dám đổi quốc hiệu thành “Đại
Việt” nếu thời Đinh - Lê có quốc hiệu là “Đại Cồ Việt, thật bất ngờ danh
xưng “Đại Việt大越” lại được chính thức sử dụng vào triều Đinh và đã trở thành
một chứng cứ phủ nhận quốc hiệu Đại Cù Việt
như đã từng được ghi chép chính thức trong ĐVSKTT, cũng chính bằng chứng này đã
phủ nhận luôn quốc hiệu Đại Việt lần
đầu tiên được đặt ra từ triều Lý Thánh Tông theo ĐVSKTT bởi vì nếu thời Đinh có quốc hiệu là Đại Việt, dĩ
nhiên nhà Lý chỉ sử dụng lại quốc hiệu cũ chứ không phải là đặt tên mới. Cùng
với danh xưng nước là “Cự Việt” có
trong bia và chuông đời Lý và danh xưng
nước là “ Đại Việt” có trong viên gạch
xây thành đời Đinh, Tiền Lê đã trở thành chứng tích chắc chắn nhất để chứng
minh vào thời Đinh, Lý không hề có một quốc hiệu chính thức nào nhưng chỉ là một
trong những tên gọi nước một cách tự phát, tùy ý của vua quan từng triều đại và
kể từ nhà Đinh thì quốc hiệu Đại Việt mới được dùng một cách phổ biến suốt trong
các triều đại sau như Lý, Trần, Lê, Trịnh, Tây Sơn và chỉ biến mất vào thời nhà
Nguyễn.
Những viên gạch Hoa Lư mang tên “Đại
Việt quốc quân thành chuyên”đã
có sức mạnh làm thay đổi các định kiến từ bấy lâu về quốc hiệu nhà Đinh, chẳng
hạn như nhà Khảo cổ học, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu đã từng thử đưa ra một lý giải
mới qua bài viết Vật liệu kiến trúc bằng
đất nung tại di tích hoàng thành Thăng Long (nguồn: vanchuongviet.org) như
sau: “…“Cồ” là một từ tiếng Nôm cũng chỉ sự to lớn... Căn cứ vào chữ in
trên những viên gạch xây thành Hoa Lư thì phải chăng, quốc hiệu thời Đinh – Tiền
Lê và cả thời Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông chính là Đại Việt (cả hai từ đều là chữ Hán) nhưng trong dân gian thì vẫn
phổ biến thói quen nói ghép hai từ Hán – Nôm đồng nghĩa nên gọi là Đại Cồ Việt (tương tự như từ: bông
hoa), để rồi sử đời sau là Đại Việt sử
ký toàn thư thời Lê ghi lại quốc hiệu theo cách gọi dân gian này và cả sự
kiện vào năm 1054, niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình năm thứ nhất, vua Lý Thánh
Tông “đặt quốc hiệu là Đại Việt”
như một sự “xác định lại cách gọi tên nước ta cho đúng?” theo ý chúng tôi
TS Nguyễn Thị Hậu đã không thoát khỏi quỹ đạo “chữ Nôm 瞿cồ
(lớn) có từ thời Đinh” như chúng tôi dã phê bình ở phần trên, do đó cách lý giải: vì Cồ = Lớn = Đại nên Đại
Cồ là một kiểu nói bình dân
nên Đại Cồ Việt = Đại
Việt
cũng không có hy vọng tiến gần sự thật. Một giả thuyết mới khác cũng
nảy sinh nhằm giải quyết vấn đề liên
quan đến quốc hiệu nhà Đinh (trước phát hiện khảo cổ về gạch Hoa Lư) theo quan
điểm ngữ âm học lịch sử Hán và Việt do
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đề xuất trong bài viết: Về quốc hiệu đời nhà Đinh (Diendan.org), trước hết GS Nguyễn Tài Cẩn
đã gián tiếp phủ nhận chữ Nôm Cồ 瞿 (lớn) trong quốc hiệu nhà Đinh大瞿越 Đại CỒ Việt: “nếu
cho ĐẠI CỒ là 2 chữ (một Hán Việt, một Nôm) đồng nghĩa với nhau thì tổ hợp đó
cũng đã bị nhiều người phản bác, nghi ngờ.” và sau đó đã nghiêng hẳn về lý
giải theo Hán âm như tác giả đã tóm tắt ý kiến của mình sau đây: "Chữ VIỆT gốc Hán, vốn có vỏ ngữ âm là
HuWET. Nhưng dưới tác động của lối nói năng trong xã hội của người bản địa, nó
đã tách đôi đi theo 2 hướng… 1- …để rụng mất phụ âm hút vào và tròn môi ở đầu
(phụ âm Hu), chỉ còn lưu lại bộ phận WET ở sau. Trường hợp này ta có cách đọc
đơn âm là VIỆT. 2… rất cá biệt, là HuWET
chuyển thành KuWET, rồi phụ âm Ku tách ra thành một âm tiết riêng là CỒ, vần
WET còn lại vẫn đọc VIỆT. Trường hợp này ta có dạng song âm là CỒ VIỆT.”
theo ý kiến của chúng tôi thì lập luận
này vẫn chưa đủ chứng lý thuyết phục, đây là một cố gắng biện minh cho 3 chữ ĐẠI
CÙ VIỆT xuất hiện trong ĐVSKTT như là một cách viết khác thể hiện cho 2 chữ ĐẠI
VIỆT (như đã có trong gạch Hoa Lư), Giáo sư Nguyễn đã quên một điều quan trọng
là trước khi lập luận về 3 chữ大瞿越,
cần phải chứng minh 3 chữ quốc hiệu nhà Đinh viết trong ĐVSKTT có thật đang tin
cậy? Có vấn đề gì không? Nếu thực ra là “Đại Việt” – trong đó Việt được đọc
theo cách đọc người Việt thời Đinh là “cồ-việt” vậy làm sao giải thích quốc hiệu
Đại Việt theo chính sử do vua Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra vào năm 1054? Chẳng
lẽ vua Lý không biết gì đến cái song âm: Cù Việt = Việt : Đại Cù Việt = Đại Việt
để rồi vua Lý lại tự đặt ra một quốc hiệu mới cho triều đại mình nhưng thực ra
lại trùng với quốc hiệu nhà Đinh? Đây là một nghịch lý, khó có thể chấp
nhận được. Dù cổ nhân đọc theo giọng Trường An hay giọng bản địa (HuWET
hay KuWET) theo một âm tiết hay hai âm tiết đi nữa thì từ xưa đến nay trong thư tịch
Hoa, Việt viết bằng chữ Hán hay Nôm chưa bao giờ, viết chữ nào khác ngoài chữ越 cả.
Chính vào thời Đinh, trên gạch Hoa Lư đã đóng dấu dòng chữ Đại Việt quốc quân thành
chuyên và trên cột
kinh Phật đỉnh Tôn Thắng ở Hoa Lư có
khắc những chữ Hán “Nam Việt
Vương Đinh …Liễn” chỉ được viết bằng một chữ越 mà
thôi! Thế nhưng ở đây
tác giả đã cố lái sang tiếng Việt: (CÃI
NHÂY vừa có thể nói CÃI CÙ NHÂY, vừa có thể nói ĐI THỌT, vừa có thể nói ĐI CÀ
THỌT ), chữ Nôm (trong phần dịch Nôm
bản kinh PHẬT THUYẾT chúng ta vừa gặp cả XƯỚNG, XA, KÍNH, THUYẾT vừa gặp cả A
XƯỚNG, KHẢ XA, XÁ KÍNH, XÁ THUYẾT) để
chứng minh cho cách đọc song âm của chữ 越 là cồ việt nhưng cách dẫn giải này chỉ đúng
với tiếng Việt, chữ Nôm còn vấn đề ở đây lại là tiếng Hán Việt và chữ Hán của 3
chữ Đại CÙ Việt大 瞿 越 xuất hiện trong văn bản chữ Hán ĐVSKTT nên không thể phù hợp, điều quan trọng chính là viên gạch
Hoa Lư (gạch xây thành của quân đội nhà nước) lại không hề ghi 3 chữ Đại Cồ Việt nếu
như thật sự Đinh Tiên Hoàng thích lối nói 2 âm tiết, đây chính là một
chứng cứ xác thực đủ để phủ nhận luận cứ
của GS Nguyễn Tài Cẩn, nên theo chúng tôi dù với cố gắng vận dụng ngữ âm lịch sử
thì tác giả cũng chưa chứng minh thấu đáo, giải quyết được vấn đề quốc hiệu nhà
Đinh. Như vậy là có một uẩn khúc khác
ở quốc hiệu nhà Đinh từ nguồn tin của ĐVSKTT: Xem kỹ lại trong ĐVSKTT, Quyển thủ. Toàn thư biểu- Biểu dâng
sách Đại Việt sử ký toàn thư sử gia Ngô Sĩ Liên đã từng viết như sau: “…Tên
gọi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, soạn thêm Hồng Bàng, Thục Vương là phần Ngoại Kỷ” vậy là Ngô Sĩ Liên đã đặt kỷ nhà Triệu mở
đầu Bản Kỷ (như Lê Văn Hưu) chứ không phải là kỷ nhà Đinh và điều này phù hợp với
Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô đại
cáo như sau: “…Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần;
bao đời xây nền độc lập…” nhưng khi xem trong Khảo tổng luận, Việt giám thông khảo
tổng luận do Lê Tung biên soạn
và đã viết như sau: “…Binh bộ thượng thư
Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quán đô tổng tài là Vũ Quỳnh soạn bộ Việt Giám
Thông Khảo, chép từ Hồng Bàng thị đến Mười hai sứ quân, tách làm Ngoại Kỷ, từ Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu Thái Tổ
Cao Hoàng Đế của quốc triều đại định [thiên hạ] chép làm Bản Kỷ” và theo Phạm Công Trứ viết trong Tục biên thư:“Tương Dực Đế năm Hồng Thuận thứ
3 [1511], sai Binh bộ thượng thư kiêm Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quan
đô tổng tài Vũ Quỳnh soạn Đại Việt Thông Giám”
như thế Vũ Quỳnh là người đầu tiên tôn vinh nhà Đinh như là một triều đại chính
thống mở đầu Bản Kỷ - Nhà nước chính thức đầu tiên của lịch sử
dân tộc Việt- Vậy ta có thể nhận định: chính
Vũ Quỳnh chứ không phải Ngô Sĩ Liên đã bổ
khuyết quốc hiệu nhà Đinh (có thể nói, nếu không đặt nhà Đinh mở
đầu Bản Kỷ thì từ Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên cho đến Ngô Sĩ Liên chẳng cần thiết
phải tạo ra quốc hiệu nếu như nhà Đinh chưa có) Nhưng
tại sao sử gia Vũ Quỳnh lại dùng chữ 瞿 trong大瞿越 một cách bí hiểm như vậy? Theo chúng tôi suy luận thì rất có thể quốc hiệu
Đại Cù Việt 大瞿越được sáng tạo ra để tạo ấn tượng khi đọc và nghe có vẻ “cổ quái” trong bối cảnh sương mù của lịch sử
thế kỷ X, và cũng có thể vì thấy chữ cù瞿có trong tên “Cù Quốc” là một trong năm hoàng hậu của vua Đinh như sử
sách đã ghi lại (ĐVSL, ĐVSKTT) rồi lại thấy chữ cù瞿có ở tên hiệu vua Đinh là “Cù Thành” (LNCQ, tuy
chúng tôi chưa tìm ra nguyên bản chữ Hán
nhưng chắc hẳn chỉ là瞿hay衢) có lẽ đã trở thành một “cảm hứng” cho sử gia, lại xét về ý nghĩa của 瞿 (=衢) là con đường thông suốt bốn ngả, đi sâu hơn cù瞿 (=衢) còn thấy
ở trong Tôn Tử binh pháp孫子兵法 của Tôn Tử: “九地: 諸侯之地三屬,先至而得天下之眾者,為 衢地”(Vùng đất tiếp cận với ba nước
chư hầu, ai đến trước thì nắm được dân chúng trong thiên hạ, đó là thế đất Cù địa)
cũng
rất xứng hợp với nhà Đinh, một nhà nước chính thống độc lập tự chủ, ngang
hàng với nước Đại Tống. Phải
chăng với những ý nghĩa trên đây đã hội tụ vào chữ cù
(瞿=衢) chính là
thâm ý của sử gia
Vũ Quỳnh (dĩ nhiên đã được vua Lê chuẩn y) khi sáng tạo ra 3 chữ Đại Cù Việt 大瞿越: nước Việt lớn rộng mở, thông
suốt khắp thiên hạ?
III. Tổng Luận:
Thông qua những khảo sát từ các thư tịch, khảo
cổ, tuyền thuyết cùng với sự phê bình các giả thuyết liên quan đến quốc hiệu
nhà Đinh, chúng tôi đã đi đến nhận định: chữ瞿 trong quốc hiệu nhà Đinh là 大瞿越đọc theo âm Hán
Việt là “CÙ” chính là một chữ Hán thuần túy. Chữ瞿không nên hiểu
như một chữ Nôm với âm đọc là “CỒ” theo nghĩa là lớn, xứ (hay cách đọc bản địa: cồ
việt = việt) xuất hiện vào thời Đinh, thế kỷ X vì không hội đủ các chứng cứ
xác đáng. Điểm quan trọng là chữ Hán瞿cù đầu tiên cần được hiểu là một cách viết khác thay cho 衢cũng đọc theo âm cù và đồng nghĩa với 衢 (con đường thông 4 ngả). Như vậy Đại Cù Việt大瞿越theo Hán văn hướng về ý nghĩa
chính trị, xã hội với tinh thần Nho giáo
là nước Việt lớn như con đường thông suốt bốn ngả. Nhưng không giống như những
ghi chép của chính sử về quốc hiệu nhà Đinh được đặt ra vào năm 968, sau khi khảo
sát các văn bản
chữ Hán và các văn khắc (bia đá, chuông
đồng) đời Lý- Trần, đặc biệt là những di
vật khảo cổ thế kỷ thứ X chúng tôi đã phát hiện ra được một thực trạng về quốc
hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt大瞿越chưa từng hiện
hữu trong lịch sử nhà Đinh vào năm 968 nhưng chỉ xuất hiện trên văn bản khắc in chữ
Hán của ĐVSKTT, theo quan điểm của chúng tôi, những soạn giả bộ sử này
đã cố ý tạo ra một quốc hiệu mới cho nhà Đinh trước tình hình nhà Đinh theo các
tài liệu còn lại không thấy nói gì đến quốc hiệu mà một triều đại chính thống mở
đầu Bản Kỷ là nhà Đinh tất nhiên phải có,
với
phát hiện của chúng tôi thì chính xác vào
năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) danh
xưng nước Đại Cù Việt do chính sử gia Vũ Quỳnh sáng tạo ra khi biên soạn bộ Việt Giám Thông Khảo sau đó đã chính
thức du nhập vào ĐVSKTT - chứ không phải
là sử gia Ngô Sĩ Liên, soạn giả chính yếu của ĐVSKTT - Đại Cù Việt 大瞿越chỉ là chữ Hán thuần túy theo khuynh hướng chính trị xã hội Nho giáo chứ không phải được hiểu theo ý nghĩa tôn giáo
(đạo Phật). Sự thật nhà Đinh không có quốc
hiệu Đại Cù Việt大瞿越, mà chỉ có danh
xưng nước là Đại Việt大越và cũng không phải là một quốc hiệu chính thức
như đã trình bày ở trên, nói cho đúng chỉ
có thể gọi là một danh xưng nước phổ biến khởi đi từ quốc hiệu (Nam)VIỆT của nhà Triệu, sau đó thường được các triều
đại kế tiếp lấy làm danh xưng nhà nước như các tên gọi Việt, (Đại) Việt, (Cự)
Việt, trong đó danh xưng Đại Việt đã được sử dụng rất phổ biến từ
Đinh, Tiền Lê đến Lý, Trần, Hậu Lê về sau. Rất có thể trước khi bộ ĐVSKTT
ra đời, các sử gia, văn nhân do tình trạng
thiếu thốn tài liệu nên trong các tác phẩm của họ đều không biết đến danh xưng
nước thường dùng vào thời Đinh là “Đại Việt” vì thế đã tạo nên một khoảng trống
về quốc hiệu nhà Đinh để rồi do quan điểm lịch sử của mình, sử gia Vũ Quỳnh đã quyết
định sáng tạo nên quốc hiệu nhà Đinh từ “hư vô” cho xứng với một triều đại chính thống mở đầu Bản Kỷ và 3 chữ Đại Cù Việt大 瞿 越đã được khai
sinh bắt đầu từ đấy. Hy vọng với những khảo cứu, luận chứng trên của chúng tôi
về quốc hiệu nhà Đinh sẽ là một nhận thức mới góp phần giải quyết một nghi án
bí ẩn của lịch sử gây nhiều tranh luận từ bấy lâu nay.
Biên Hòa, ngày
05 tháng 10 năm 2010
Chú thích chung:
Bài viết này là
sự tổng hợp, đúc kết từ những tìm hiểu, ý kiến, phát hiện của chúng tôi trong
các cuộc thảo luận rải rác trong Diễn đàn Viện Việt Học liên quan đến vấn đề quốc
hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt: Thắc mắc về chữ Nôm cồ 瞿http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,32675,page=1;
Đại Cồ Việt http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,39577;
Khảo về “Đại Cồ Việt” - Nước Phật giáo lớn http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,40618.
Nhân đây chúng tôi xin ghi nơi đây lòng biết ơn sâu sắc với tất cả mọi người (Huong
Ho, Khúc Thần, Nguyễn Cung Thông, Lê Bắc, Nguyễn Hữu Vinh, NguyYen, Nguyễn.Ng,
Gocle, Marcophily, Trần Trọng Dương, Nguyễn Thị Hậu, Nguyễn
Anh Huy…) đã tham gia thảo luận, góp ý – trực tiếp hay gián tiếp - và có những
gợi ý, chỉ dẫn quan trọng…với chúng tôi trong DĐVVH. Đặc biệt là đối với sự
giúp đỡ của anh Huong Ho (Nguyễn vinh Quang) đã tốn công giúp đỡ tìm ra các tài
liệu xưa quý hiếm liên quan đến Đại Cù Việt gồm: 1- Cours d'histoire annamite - Trương Vĩnh Ký - Saigon 1875, 2- Histoire ancienne et moderne de l'Annam,
Tong-king et Cochinchine - L'Abbé Adr. Launay - Paris 1884. 3- Contes et légendes Annamites – A.
Landes. Saigon 1886. 4- Abrégé de l'histoire d'Annam / Alfred Schreiner, Saigon
1906. 5- Etude
historique et archéologique sur Hoa Lư. Première capitale de l' Annam
indépendante Gustave Dumoutier 1894 và của
Cư sĩ Huyền Thanh đã trao đổi, góp ý quan trọng về vấn đề kinh điển Mật Tông
liên quan đến danh hiệu Cồ Đàm; xin cảm
ơn những sự giúp đỡ tận tình của các anh: Tôn Thất Thọ với bản chụp trích đoạn
sách Đại Nam quốc lược sử - Alfred Schreiner -Nguyễn Văn Nhàn. Sài gòn 1905, Nam Việt lược sử Nguyễn Văn Mại, Sai Gon 1919 cùng sự góp ý cần thiết của anh nhằm giúp
hoàn chỉnh bài viết này; của Lê Tuấn Anh với bản pdf Chữ Nôm với Quốc ngữ. Sở
Cuồng Lê Dư. Nam Phong Tạp chí T30, số 172 1932, của NNT và Khúc Thần (DĐVVH) với bản pdf sao chụp từ bản chép tay tự
vị Dictionarium Anamitico-Latinum / P.J. Pigneaux
(1772-1773); của Nguyễn Cung Thông với thông tin về sách Lược
Khảo Vấn Ðề Chữ Nôm Trần Văn Giáp (Lê Văn Ðặng thực hiện văn bản). USA..Ngày
Nay. 2003. Xin cảm ơn Marcophily,
Bacle,
TS
Nguyễn
Thị Hậu, Thu Hà (Ban biên tập trang mạng
Bảo Tàng Lịch Sử VN), đã cung cấp các
thông tin khảo cổ, hình ảnh về gạch Hoa Lư, Thăng Long. Cuối cùng là ngoài các
tài liệu tham khảo đã ghi chú rõ trong bài viết ra còn có những tài liệu sử học,
từ thư (chữ Hán, Nôm, Pháp, Việt…) khác chúng tôi đã tham khảo từ các hình ảnh,
bản pdf sao chụp từ nguyên bản do các website
đăng tải phổ biến: Guoxue.com, zh.wikisource.org, Nomfoundation.org,
Archive.org, Gallica.bnf.fr, Books.google.com, Persee.fr, Jstor.org, Songhuong.com.vn, Trangnhahoaihuong.com. Nếu còn có gì sơ sót
xin mọi người lượng thứ.
(Đăng trên Tạp Chí Xưa & Nay số 368 và 369)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét