Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

“Quốc Tân La” hay “nước Tân La” ?



                       Quốc Tân La”  hay “nước Tân La” ?
                                                                                   Đinh Văn Tuấn

          Trong bài phú chữ Nôm  Cư trần lạc đạo phú [6] (CTLĐP) tương truyền là của vua Trần Nhân Tông, ở Hội thứ 5 có đoạn:
         “Thiền ngõ năm câu, nằm nhãng trong quê Hà Hữu.  
          Kinh xem ba biến, ngồi ngơi mé quốc Tân La
Trong đó, quốc Tân La” chữ Nôm của các truyền bản được khắc in là國新羅, từ trước đến nay, ba chữ này đã được hầu hết các học giả, nhà nghiên cứu Hán Nôm đều phiên Nôm đồng nhất là quốc Tân La” [3,.6,7,11], cho đến nay chưa có ai hoài nghi cách phiên Nôm này. Về 2 chữ Tân La新羅chắc chắn không thành vấn đề gì vì Tân La新羅, trong Hán văn chỉ nước Tân La thống nhất (668 - 935) là một thời đại Phật giáo hưng thịnh nhất ở bán đảo Triều Tiên ngày xưa, ở trong kinh sách Phật giáo, Tân La mang một khái niệm tượng trưng cho một cõi Phật, thế giới Cực Lạc.[1] Nhưng chỉ riêng chữ quốc trước Tân La 新羅, theo chúng tôi dường như có một điều bất ổn về cách đọc Nôm.

          Chữ là một chữ Hán có âm Hán Việt là quốc với nghĩa chỉ lãnh thổ, nhà nước và trong CTLĐP, có lẽ người đầu tiên xác định âm đọc là “quốc” chính là học giả Đào Duy Anh,  trong sách Chữ Nôm: Nguồn gốc – Cấu tạo - Diễn biến (1975) [3] tác giả  xác định: “Trong  số những từ xưa còn nên kể những từ đơn mượn ở chữ Hán (âm Hán Việt) để biểu hiện những khái niệm mà đời sau  người ta chỉ dùng những từ Việt để biểu hiện thôi…Quốc là nước (Ngồi nghe mới quốc Tân La)” sau đó đến Học giả Hoàng Xuân Hãn trong Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần Lê [7] vẫn đọc quốc vì cho là một từ cổ: “...ngồi ngơi mé (mái) quốc Tân La: lòng ta êm lặng như đang nghỉ giữa cảnh chùa chiền nuớc Tân la.”  hay mới gần đây, PGS,TS Hoàng Thị Ngọ trong sách Thiền Tông bản hạnh (2006)[6] cũng phiên Nôm không khác gì các tiền bối. Ngay trong CTLĐP, cũng đã có chỗ dùng tiếng Hán Việt như một từ Việt ở Hội thứ1: “Nguyệt bạc vừng thanh” hoặc ở Quốc âm thi tập [10] của Nguyễn Trãi: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Ngôn chí, bài 10) nhưng với chữ quốc , chúng tôi đã thử tìm hiểu xem  sự thật trong tiếng Việt thời Trần trở về sau, có trường hợp nào tiếng “quốc” được dùng như một từ cổ hay một từ xét như từ vựng tiếng Việt?  Qua khảo sát, thăm dò các tài liệu chữ Nôm và quốc ngữ, thật đáng ngạc nhiên lại không thấy một chứng cứ nào xác nhận có hiện tượng dùng tiếng “quốc” như một từ đơn hay là một từ ghép theo đúng trật tự tiếng Việt như kiểu “quốc Tân la”.
          
           Tuy vậy, chúng tôi vẫn tìm thấy một hiện tượng bất thường vào thế kỷ XVII, nơi một văn bản chữ quốc ngữ thời kỳ đầu đó là bản Kinh Lạy Cha có niên đại vào năm 1632, theo sách Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của giáo hội Công giáo Việt Nam (Quyển 1) của Giáo sư Roland Jacques, [17] ở phần 4 – Bảy bản phụ trương - Phụ trương I: Nguyên văn bản thảo Áo Môn. [C- Kinh Lạy Cha] (tr. 247) đã ghi “coác Cia” còn ở phần Phụ trương VII, Tiến trình Kinh Lạy Cha có đưa ra bản KLC năm 1700-1750 cũng ghi: “cuốc cha trị đến”, ngoài ra trong một tài liệu Kinh Lạy Cha của người Công Giáo Việt Nam vào năm 1778 cũng ghi nhận “cuoc cha tri den...”[12] và trong Quảng tập viêm văn (1898) của Edmond Nordemann [5], trong sách này có bản Kinh Lạy Cha (Chương X: Đạo Gia tô - Kinh Thiên Chúa) đã ghi: “...quốc Cha trị đến”.
          
            Cách dùng tiếng “quốc” như trên có phải là một bằng chứng cho việc khẳng định “quốc” là một từ cổ gốc Hán dùng theo ngữ pháp Việt? Theo ý chúng tôi, đây chỉ là một hiện tượng xảy ra trong thời kỳ chữ quốc ngữ phôi thai, các nhà truyền giáo ngoại quốc dù đã học tiếng Việt khá giỏi họ cũng chẳng thể nào phân biệt rõ ràng khi nào dùng quốc khi nào dùng nước như người Việt bản xứ nên khi chuyển dịch sang tiếng Việt họ đã hiểu quốcnước  từ đồng nghĩa và muốn dùng từ nào cũng được theo dụng ý của minh. Chúng tôi xin dẫn ra một bằng chứng từ trong sách Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của giáo hội Công giáo Việt Nam (sđd) ở phần cước chú của Bản văn tiếng Việt - Một tài liệu ngôn ngữ học đối chiếu Nhật-Hoa-Việt biên soạn tại Áo môn (Macao) năm 1632: “Codex (bộ văn bản viết tay) 7968 trong Thư viện Quốc gia tại Lisboa. Bộ văn bản này...có Kinh Lạy Cha bằng chữ Latinh, chữ Nôm và chữ Việt viết bằng mẫu tự Latinh, đây là một bản thảo đưọc biên soạn giữa 1739 và 1754: thật vậy lời tựa của văn bản ấy nói rõ rằng phần tiếng Việt chỉ nhằm mục đích giải thích văn bản Latinh và không được đọc nguyên văn như thế” (tr.225) [phần in đậm do chúng tôi nhấn mạnh]. Rõ ràng các dịch giả Kinh Lạy Cha đã hiểu: QUỐC = NƯỚC, do tiếng Việt bấy giờ  biểu đạt 2 ý niệm nhà nước    chất lỏng thiên nhiên cùng một  tiếng “nước” nên khi chuyển dịch người ngoại quốc đã  cẩn thận, cố ý dùng “quốc” (nhà nước) để tránh hiểu lầm về “nước” (chất lỏng). Trong sách Phép giảng tám ngày của Alexandre de Rhodes [2], Ngày thứ sáu, có 2 lần tác giả đã viết: “… vì cŏấc tlên blời” (tr.177), “…sự cŏấc tlên blời” (tr.182) đây chỉ là một lầm lẫn như đã giải thích ở trên vì thật ra chính trong Phép giảng tám ngày A.Rhodes đã từng viết là nước An nam, nước Ngô, nước thiên hạ... Các tài liệu quốc ngữ vào thời kỳ này vẫn dùng phổ biến tiếng “nước” chỉ nhà nước, đất nước, theo Lm Ðỗ Quang Chính trong Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 [4] cho biết tài liệu viết tay vào năm 1659 mà Bento Thiện viết có tiêu đề “Lịch sử nước Annam” cùng thư Bento Thiện gửi cho Fillipo Marino đã từng viết là nước này, nước Annam..., hay trong bài Một bức thư cuối thế kỷ XVII,  triều đình Lê Trịnh gửi vua nước Pha Lan Sa [15], Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã cho biết bức thư này viết vào khoảng những năm 1683-1686, ở phần bản dịch chữ Quốc ngữ cũng đã ghi: “...Nay nước An nam này với nước Đại Pháp…”. Khi tìm hiểu các truyền bản chữ Nôm thuộc hàng sớm nhất từ đời Trần  đến Lê sơ thì kết quả cho thấy  tiếng Việt bấy giờ chỉ có tiếng nước (đất nước, nhà nước) chứ không hề có dạng nào theo kiểu  quốc như “quốc Đại Việt”, “quốc nhà”… sau đây là một số từ nước qua thơ Nôm xưa:
Đời Trần:
- Trần Trùng Quang tiễn Nguyễn Biểu đi sứ [18]:
          “Việc nước một mai công ngõ vẹn”
- Triều thần can vua đừng giữ Vương Tường[8]:
         “Hán Hồ đôi nước cách đề phong”
- Vương tường oán triều đình:
          “Vực nước ví còn tài Vệ, Hoắc” [2]
          
Đời Lê sơ:
- Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi) [19]:
           Nước chẳng còn có Sử Ngư” (Mạn thuật kỳ 14)
           “Còn có một lòng âu việc nước” (Thuật hứng, 23)…
         
           Tóm lại, thực sự chưa có một bằng chứng xác đáng nào chứng minh từ thời Trần  cho đến nay, trong tiếng Việt, đã từng dùng tiếng QUỐC như một từ vựng tiếng   Việt. Do đó theo ý chúng tôi, ở bài phú của vua Trần, thì chữ trong  國新羅 nên đọc là  NƯỚC thay vì là QUỐC, chữ với âm đọc “nước” là một chữ Nôm mượn Hán đọc theo nghĩa và  國新羅 sẽ là NƯỚC Tân La, đọc như thế sẽ rất hợp vì ứng đối với câu trên là QUÊ Hà Hữu 圭何有[3] (“quê” nôm đối với “nước” nôm, “Hà Hữu” Hán đối với “Tân La” Hán). NƯỚC Tân La rất thuận theo ngữ pháp Việt chứ không trở nên khác thường nếu đọc là QUỐC Tân La.. Để ghi âm tiếng NƯỚC (đất nước, nhà nước) vua Trần Nhân Tông đã  đã dùng chữ Hán(đọc nghĩa) nhưng với tiếng NƯỚC (chất lỏng tự nhiên) thì lại dùng chữ[4](giả tá) như Hội thứ nhất (CTLĐP): “chơi nước biếc ẩn non xanh”, chắc hẳn là có dụng ý để phân biệt ngữ nghĩa. Trong hầu hết các văn bản chữ Nôm còn lại đa số chỉ thấy dùng chữ để ghi âm nước cho cả 2 nghĩa (nhà nước, chất lỏng). Các bộ tự điển chữ Nôm từ tự vị An nam – La tinh của P. Béhaine (1772 - 1773) [16], Đại Nam quốc âm tự vị (1896) [10] của Huỳnh Tịnh Của, Bảng tra chữ Nôm [20] do Viện Ngôn Ngữ Học biên soạn,  cho đến  các bộ tự điển chữ Nôm hiện đại như Tự điển chữ Nôm [14] do Nguyễn Quang Hồng chủ biên (2006) và Tự điển chữ Nôm trích dẫn (2009) [13] nhiều tác giả hợp soạn do Viện Việt Học ấn hành đều không thấy ghi nhận dạng chữ như một từ Việt cổ gốc Hán và cũng không có tự dạng ghi âm “nước”, nhưng chỉ riêng Đại từ điển chữ Nôm (1998) [21], của cụ Vũ Văn Kính là có ghi nhận tự dạng , ghi âm“nước”, đặc biệt là trong Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII – Các tác phẩm chữ nôm của Maiorica [22] của cụ Vũ Văn Kính đã ghi nhận Maiorica từng sử dụng chữ đọc theo nghĩa là “nước”. Đây chính là một bằng chứng quan trọng để chứng minh cho cách đọc國新羅là NƯỚC Tân La.       

           Nếu như phát hiện trên đây về cách đọc chữ   là NƯỚC là đúng thì rất mong các nhà nghiên cứu Hán Nôm trả lại cho âm đọc thực sự của 國新羅mà vua Trần Nhân Tông đã viết trong CTLĐP là NƯỚC Tân La chứ không phải là QUỐC Tân La, bổ sung chữ Nôm nướcvào tự điển chữ Nôm và về mặt ngữ âm lịch sử, do trước thời Trần cũng không còn một truyền bản chữ Nôm nào nên đây rất có thể là một chứng tích cho tiếng “nước” chỉ đất nước, nhà nước đã có mặt sớm nhất từ thời Trần (1225 - 1400).
        
                                                                                      Biên Hòa ngày 05 tháng 7 năm 2011
                                                                                    
   
Tài liệu tham khảo
1.          Alexandro de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et Latinvm, bản dịch  tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
2.          Alexandro de Rhodes (1651), Cathechismus (Phép giảng tám ngày), Tủ Sách Đại Kết tái bản theo bản Việt ngữ của Tinh Việt Văn Đoàn, 1993
3.          Đào Duy Anh, Chữ Nôm: Nguồn gốc – Cấu tạo – Diễn biến. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 1975.
4.          Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659, NXB Ra khơi, Sài gòn 1972
5.          Edmond Nordemann, Quảng tập viêm văn, bản in Hà Nội 1898 (nguồn Thư viện Quốc Gia VN)
6.          Hoàng Thị Ngọ, Thiền tông bản hạnh, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học & Nxb Văn học, H., 2009.
7.          Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập III, Nxb Giáo Dục, 1998
8.          Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Toản, Thi văn Việt nam , NXB Sông Nhị Hà Nội, 1951
9.          Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên (dịch và giới thiệu), Tự vị Annam -  Latinh (1772 – 1773), NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, 1999
10.       Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc âm tự vị, Tom I-II Sài Gòn 1895-1896, Nxb Trẻ, tái bản 1998
11.      
Mạnh Thát, Toàn tập Trần Nhân Tông, NXB TP.Hồ Chí Minh, 2000
12.       Lorenzo Hervás, Saggio pratico delle lingue: con prolegomeni, e una raccolta di orazioni dominicali in piu di ... (1787) Published 1787 Per Gregorio Biasini,
Nguồn:http://books.google.com/books?id=oigQAAAAIAAJ&pg=RA8-PA126#v=onepage&q&f=false , (xin cảm ơn anh Nguyễn Vinh Quang đã chỉ dẫn tài liệu này)
13.       Nguyễn Hữu Vinh, Ðặng Thế Kiệt, Nguyễn Doãn Vượng, Lê Văn Ðặng, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Ngọc Bích, Trần Uyên Thi, Tự điển chữ Nôm trích dẫn, Viện Việt Học ấn hành, 2009.
14.       Nguyễn Quang Hồng (chủ biên), Tự điển chữ Nôm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội  2006
15.       Nguyễn Tài Cẩn, Một bức thư cuối thế kỷ XVII,  triều đình Lê Trịnh gửi vua nước Pha Lan Sa, Tạp chí Hán Nôm số 3 (28) /1996
16.       P.J. Pigneaux, Dictionarium Anamitico - Latinum, (bản thảo viết tay) (1772-1773).
17.       Roland Jacques, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của giáo hội Công giáo Việt Nam (Quyển 1), (http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=139&ict=38)
18.       Viện Văn học (biên soạn), thơ
văn Lý Trần (tập 3), Nxb KHXH, Hà Nội, 1978
19.       Viện Ngôn Ngữ Học (biên soạn),  Bảng tra chữ Nôm, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976
20.       Viện Sử học (dịch và phiên âm), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb  Khoa học Xã hội, 1976
21.       Vũ Văn Kính, Đại tự điển chữ Nôm, NXB Văn Nghệ, 1999
22.       Vũ Văn Kính, Bảng tra chữ Nôm thế kỷ XVII – Các tác phẩm chữ nôm của Maiorica, NXB TP Hồ Chí Minh, 1992

(Đăng trên Tạp Chí Ngôn Ng số 1 năm 2012)



[2] Theo cụ Hoàng Xuân Hãn thì những bài thơ Đưòng luật Vương Tường trên  ra đời vào khoảng thời Trần. [8]

[3] Quê hà hữu  lấy ý trong câu: vô hà hữu chi hương(cõi không ở đâu cả hay chỗ hư không tịch mịch) trong  Thiên Tiêu Dao Du của  sách Nam Hoa Kinh -Trang Tử
[4]Đa số các tự điển, sách nghiên cứu chữ Nôm đều cho chữ Nôm hài thanh:(thủy+nhược) nhưng theo chung tôi, chỉ là một chữ Nôm mượn Hán, kiểu giả tá vì chữ ,xưa quen thuộc với các nhà nho Việt, chẳng hạn trong Tự Đức Thánh chẽ tự học giải nghĩa ca do vua Tự Đức biên soạn đã từng ghi: “: sông Nhược và theo Khang Hy tự điển: “日灼切,音弱”: nhật chước thiết, âm nhược.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét