Đinh Văn Tuấn
Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại
của Bà Huyện
Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều
nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”[1].
Sự tranh luận này có chiều hướng phủ nhận quan điểm cũ của các tiền bối cũng
như những người tin theo họ để bảo vệ cho cách đọc “cái đa đa”. Thế nhưng, theo
chúng tôi, tranh luận đã không đi đến tiến bộ và sự thật với các bằng chứng có giá trị thuyết phục mà
ngược lại đã gây ra nhiễu loạn về học thuật, làm mất cảm hứng cho người yêu thơ
và gây hoang mang cho sự học tập, giảng
dạy của thầy và trò.
Bài viết này là một cố gắng tìm hiểu
lại vấn đề một cách khách quan trên tinh thần khoa học với các chứng cứ xác đáng.
Hy vọng có thể trả lại giá trị nghệ thuật và ý nghĩa vốn có của những vần thơ
nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan .
I.“gia gia” và văn bản chữ quốc ngữ
“cái gia gia” trong câu thơ thứ 6 ở
bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện
Thanh Quan được phiên âm và viết chữ
quốc ngữ sớm nhất có lẽ là từ tác giả Phạm Quỳnh, 1917[2] và
sau đó đến các nhà nghiên cứu văn học khác như Tuyết Trang Trần Văn Ngoạn, 1918[3]; Trần
Trung Viên, 1925 - 1930[4];
Ôn như Nguyễn Văn Ngọc, 1927[5]; Georges Cordier, 1933[6]; Ngô
Tất Tố, 1941[7]; Dương
Quảng Hàm, 1941[8]; Hạo
Nhiên Nghiêm Toản, 1949[9]; Trần
Trọng Kim, 1946[10]; Nguyễn
Tường Phượng, 1953[11]
và các nhà khác cho đến nay cũng vẫn là “cái gia gia”.
Về
ý nghĩa “cái gia gia”,
cụ Nguyễn Văn Ngọc, lần đầu tiên đã chú giải tường tận:“Gia gia = đáng lẽ cũng viết da da,
hay đa đa; chỉ một giống chim thuộc
về loài gà, loài công, lông đỏ, trắng, xám, hay đen, ở những nơì quang đãng,
không đậu trên cành cây bao giờ và người ta hay săn bắn, mới đúng, nhưng cũng
vì đây tuy mượn đến con da da mà thực
ý lại nói đến gia ăn với chữ quốc ở
trên và nghĩa là nhà”. Như vậy, theo đó “gia gia” chính là “da da” ,
một biến âm dân gian của “đa đa” nhưng
trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, “da da”
phải đọc là “gia gia” (nhà) để ứng đối với “quốc quốc” ở câu trên vì cụ Ôn Như cũng
đã giảng về “quốc quốc” ở câu thơ thứ 5: “Nhớ
nước đau lòng con quốc quốc” như sau: “Đáng lẽ viết cuốc cuốc,
nhưng vì đây tuy mượn đến con cuốc mà thực ý lại nói đến quốc nghĩa là nước. Ngô Tất Tố còn trích thơ của di thần đời Lê là Trần
Danh Án: “鷓 鴣 鳴 家 家, 杜 鵑 鳴 國 國, 微 禽 尚 有 國 家 聲, 孤 臣
對 此 情 難 極 , Giá cô minh “gia gia”, Đỗ Quyên minh “quốc quốc”, Vi cầm thượng hữu”
quốc” “gia”, thanh. Cô thần đối thử tình nan cực”(Gà gô kêu gia gia, con cuốc
kêu quốc quốc, loài chim nhỏ còn có tiếng kêu “quốc” “gia”, kẻ bề tôi chơ vơ
đối với những tiếng ấy đau lòng khôn xiết” và cho là có thể Bà Huyện Thanh
Quan đã chịu ảnh hưởng “minh quốc quốc”, “minh gia gia” để viết thành “ con quốc quốc” và “cái gia
gia”. Các nhà khác về sau, nói chung đều cũng hiểu ngay “gia
gia” là nói đến loài chim đa đa hay gà
gô, tên chữ Hán là giá cô 鷓鴣.
Tóm lại, 2 chữ cuối của câu thơ thứ
6 trong bài thơ Qua Đèo Ngang, từ trước đến
nay đều được đa số các nhà nghiên cứu đọc hiểu là “gia gia” ám chỉ con chim đa
đa và cũng liên tưởng đến ý niệm “nhà”
như một thủ pháp “chơi chữ” trong thơ
ca. Nhưng một số nghi vấn có thể nảy sinh từ đó: Tại sao chỉ là “gia gia” mà
không phải là “da da” hay “đa đa”? Liệu có một dị bản nào khác thay cho “gia
gia”?
II. “gia gia” và văn bản chữ Nôm
Trong tất cả các sách báo viết về bài
thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện
Thanh Quan (kể các các bài tranh luận gần đây), điều đáng tiếc là thiếu vắng
bản Nôm gốc (dù là truyền bản) để làm bằng chứng khi luận giải, nguyên nhân có thể là do trở ngại về việc in chữ
Nôm hay thói quen xem thường bản gốc và cũng vì việc tìm đọc các văn bản Hán
Nôm quý hiếm (lại không được sao chụp, in ra để phổ biến) rất khó khăn. Dù vậy,
thông qua các tài liệu quốc ngữ xưa nay do các nhà nghiên cứu uy tín về văn học
Hán Nôm biên soạn, ta nhận thấy không một
tác giả nào đã đưa ra một dị bản nào khác ngoài “gia gia”. Tuy nhiên Thanh
Nghị, 1967[12] có thể là người đầu tiên đọc là “đa đa” thay vì “gia gia”:“Thương nhà mỏi miệng cái đa đa” nhưng lại không cho biết nguồn trích
dẫn, có thể là ông tự suy đoán theo tri thức riêng mình. Rồi mới gần đây An Chi
cũng tin tưởng và quả quyết cách đọc “đa
đa”[13] là đúng nhưng lại cũng không
đưa ra được bằng chứng về chữ Nôm, một thiếu sót quan trọng khi nghiên cứu, bàn
luận. Nhưng cách đọc “đa đa” liệu có đúng theo văn bản chữ Nôm nào đó
không? Theo PGS. TS Đỗ Thị Hảo[14], những bài thơ Nôm của Bà Huyện Thanh Quan có chép
rải rác trong 5 văn bản: 1. Liệt truyện
thi ngâm, AB.147; 2. Quốc âm thi tập,
AB.649; Thi ca quốc âm tạp lục,
VHv.266; Quốc văn tùng thư, VHv.2248;
Quốc văn tùng ký, AB.383, Đỗ Thị Hảo cho biết trong 5 văn bản này, chỉ
có bản AB.383 là đáng tin cậy còn các bản khác đều chép tùy tiện, chữ có nhiều
dị biệt. Bản Quốc văn tùng ký do
Nguyễn Văn San tự là Vân Sơn tên hiệu là Hải Châu Tử biên soạn, ông là người sống cùng thời với Bà Huyện Thanh Quan. Các bài thơ này được Đỗ Thị
Hảo khảo cứu với phương pháp: “...mỗi bài
thơ chúng tôi sẽ so sánh, đối chiếu những dị biệt ở từng câu chữ với những bài
thơ đã từng được công bố trước đây” và
bài Qua đèo Ngang đã được Đỗ
Thị Hảo phiên âm và chú thích cẩn thận, đáng chú ý là có kèm theo chữ Nôm, tuy nhiên,
đây không phải chữ Nôm gốc nhưng lại là fonts vi tính nên không biết có thật chính
xác? Câu thứ 6 như sau: “Thương
nhà mỏi miệng cái gia gia”, hai chữ
“gia gia” được ghi là 家家. Chúng tôi đã tìm thấy bản chép tay văn bản Quốc văn tùng ký 國文 叢 記 AB.383 từ thư viện gia
đình của Maurice Durand[15],
phần Phụ Nhàn Khanh thi tập 附 嫻 卿 詩 集 có chép bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện
Thanh Quan và 2 chữ cuối câu thứ
sáu được chép chữ Nôm là [家鳥], (xem hình) gia 家 và phần biểu ý
là điểu 鳥. Chữ Nôm
trong sách của Đỗ Thị Hảo và của Maurice Durand tuy khác nhau
nhưng dù sao phần thanh phù vẫn chỉ là gia 家 và từ âm gia chỉ có thể đọc là da hay gia mà thôi, không thể đọc ra “đa” được. Cụ Trần Văn Kiệm[16] cũng đã từng
dẫn ra chữ 2 chữ Nôm [家鳥] và [加鳥] (thanh phù gia)
và đọc là “gia” (mỏi miệng cái gia gia).
Chúng tôi đã tra cứu trong các bộ tự điển chữ Nôm loại lớn như Đại tự điển chữ Nôm (Vũ Văn Kính)[17], Tự điển chữ Nôm [18](Nguyễn Quang
Hồng), Tự điển chữ Nôm trích dẫn[19] (Viện Việt Học)
thì thấy âm “gia” được viết bằng chữ Nôm
như 家, 加, 耶, 茄, 嘉, 傢, 痂, 椰, 跏, 葭, 瘕, 爺 (thanh phù gia, già,
da)…và âm “đa” được ký âm bằng đa
多,爹, 栘, [飠它] (thanh phù đa, đà).
Riêng chữ 枷,
tự điển Nguyễn Quang Hồng cho là có âm đa
(trong cây đa) nhưng theo chúng tôi thanh phù gia
phải đọc là “da” mới đúng âm xưa. Thật ra xưa là cây “da” (=cây đa) như tự vị
của P. Béhaine (1772-73)[20], Huỳnh Tịnh
Của[21] (1895-96) đã
ghi nhận và viết Nôm là 椰 (da), đến tự
điển của Hội Khai Trí Tiến Đức[22] (1931) mới
ghi nhận cây da = cây đa. Như thế, cách đọc “đa đa” của Thanh Nghị và An Chi
không xác đáng vì thiếu chứng cứ văn bản cũng như về phép đọc chữ Nôm, cho đến
nay chưa phát hiện ra một dị bản nào
chép chữ Nôm là 多 hay [鳥多] và dĩ nhiên như trên đã nói, [家鳥], 家 trong bản AB.383 (và các bản khác) không thể
đọc ra “đa đa”.
người chép tay đã phiên Nôm là “gia gia”. Chữ Nôm có phần biểu âm là
III. “gia gia” và tiếng kêu
của chim giá cô (đa đa)
Tên gọi tiếng Việt của loài chim giá cô 鷓鴣 xuất hiện sớm
nhất trong tự điển Việt – Bồ - La (1651)[23] của Đắc Lộ với
tên gọi là chim “đa đa” và từ đó về sau hầu hết các tự điển, tự vị quốc ngữ đều
chỉ ghi nhận “đa đa”. Về chữ Nôm của tên gọi loài chim “đa đa”, trong các văn bản Nôm như Tam thiên tự [24], Ngũ thiên tự [25], Tự Đức Thánh chế tự học giải nghĩa ca[26], Đại Nam quốc ngữ[27] và các tự vị,
tự điển của P. Béhaine, Huỳnh Tịnh Của, J.F.M. Génibrel[28] …
đều ký âm là 多多, không có tự dạng nào khác nữa. Hiện vẫn chưa
tìm ra tài liệu nào ghi nhận chim đa đa
còn gọi là da da hay gia gia nhưng vì các tự vị, tự điển xưa
không thể thâu thập hết tiếng Việt nên không biết đến và rất có thể trong dân gian (ở địa phương nào đó) đã từng
gọi tên như vậy? Tiếng Việt (hay trong phương ngữ miền Trung) từng có sự biến đổi
qua lại giữa D và Đ như đao/dao; đĩa/ dĩa; da/đa…vậy khả năng đa đa có thể được nói là da da như cụ Nguyễn Văn Ngọc đã giảng? Nguyễn
Ngọc San[29] giải thích về
“gia gia”: “Đây là cách chơi chữ của tác giả. GIA GIA là đa
đa, giống gà nhỏ sống ở ven rừng (…)Đa đa có thể biến âm thành DA DA, giống như
các trường hợp sau:
Đình→Dừng
Đao→Dao
Đốc(tâm)→Dốc(lòng)
Đẩy→Dẩy...
Giữa DA DA và GIA GIA không có gì khác nhau vì lúc này đã có sự xoá nhãn giữa đối lập D > < GI. Phiên là DA DA hay GIA GIA là do người phiên âm, và cũng để phô tài chơi chữ của tác giả”
Đao→Dao
Đốc(tâm)→Dốc(lòng)
Đẩy→Dẩy...
Giữa DA DA và GIA GIA không có gì khác nhau vì lúc này đã có sự xoá nhãn giữa đối lập D > < GI. Phiên là DA DA hay GIA GIA là do người phiên âm, và cũng để phô tài chơi chữ của tác giả”
Nếu dân gian
gọi tên “đa đa” theo tiếng kêu của loài chim giá cô như: “Tiếc rổ tép đa đa! Tiếc rổ tép đa đa!” thì cũng có thể còn các
tên gọi khác dựa vào những âm nhại dân gian từ tiếng kêu chim đa đa như “Bát cát quả cà”, “
hành bất đắc dã ca ca”
để gọi là “gô”, gà gô hoặc có thể hiểu “gô” biến âm từ “cô” trong “giá cô” (phụ âm
c thành g như can/gan, cận/gần, cấp/gấp và nguyên âm a thành ô như nam/nôm, hạt/hột), “gô” gọi tắt từ
“giá cô” như chim “quyên” gọi tắt từ “đỗ quyên”. Đặng Đức Siêu, Nguyễn Ngọc San
lại nhìn nhận, giá – cô (là từ gốc phương Nam)
của gà gô[30].
vậy lẽ
nào tiếng kêu “gia gia” như trong thơ Trần Danh Án đã từng viết “Giá cô minh gia gia” lại không được
dùng để gọi tên: chim gia gia? Cụ
Quách Tấn[31] đã cho biết
thơ Tàu cũng có “gia gia”: “Đỗ vũ than đầu minh quốc quốc, Giá
cô giang thượng khiếu gia gia”(Cuốc cuốc đầu gềnh kêu quốc quốc, Đa đa
bờ nước gọi gia gia),“Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc, Nhật văn cô điểu hoán
gia gia”(Cuốc kêu quốc quốc canh dài, Gia gia ngày những sụt sùi tiếng đa). Theo Nguyễn
Đổng Chi[32] và Đỗ Đức Hiểu thì “gia gia” là tiếng kêu của chim giá cô như sau: “Bất thực túc Chu gia”,
vì dựa
theo điển tích Bá Di, Thúc Tề không chịu ăn cơm gạo nhà Chu,
rồi bỏ lên núi và hai ông nhịn ăn rồi chết đói, lòng mãi u uất, “Oan hồn
hai ông biến thành một con chim kêu ra rả: “Bất thực túc Chu gia... Bất thực
túc Chu gia... Chu gia...gia, gia...”có nghĩa
là “Không ăn lúa nhà Chu... Không ăn lúa nhà Chu...” và tiếng cuối cùng “gia gia”âm vang trong núi.
Mọi người bảo đó là con chim đa đa còn đầy uất hận”
[33]. Chắc tiếng kêu này chỉ là theo khẩu
ngữ tục truyền từ dân gian Trung Quốc thôi
chứ trong thành ngữ Hán chỉ có:“Bất thực Chu túc 不食周粟”[34] liên quan đến điển tích này. Thông thường chim giá cô trong thư tịch Hán tục truyền có
tiếng kêu là “hành bất đắc dã ca ca 行不得也哥哥”
(xíng bù dé yě gē gē) nhưng ít ai biết rằng vẫn còn có tiếng kêu khác nữa đó là: “Áo não trạch gia 懊惱澤家”
(ào nǎo zé jiā),
trong bài thơ Giá cô 鷓鴣 của Vi Trang 韋莊 (đời Đường) có câu: “Áo não trạch gia phi hữu hận 懊惱澤家非有恨” và “Áo não
trạch gia” theo bộ Từ Nguyên[35]
chính là tiếng kêu của chim
giá cô. Nguyễn Văn San trong Đại Nam quốc
ngữ[36]
đã chú giải về chim đa đa (giá cô) như sau: “Chim
đa đa , vua Nghệ Tông gọi nó là Hoài Nam, lại có tên Việt trĩ, nó thường kêu
“áo não trạch gia,“câu chu cách trách”, hành bất đắc dã ca ca”.
Như thế, các âm “jiā”, “gia” và “gia gia” cũng là một cách tượng thanh của tiếng kêu của chim đa đa chứ
không nhất định chỉ là “gē gē”, “ca ca” hay “đa đa”. Nếu chưa tìm thấy tài liệu
chữ quốc ngữ nào ghi nhận chim da da/gia
gia cũng không thể khẳng định là không có vì chính tiếng kêu “jiā”, “gia” và “gia gia” và quan trọng hơn, đó là cách viết 家, [家鳥]
trong văn bản chữ Nôm AB.383 đã là những bằng chứng chắc chắn cho
tên gọi chim da da/gia gia. Trừ phi tìm ra được một
văn bản chữ Nôm có niên đại sớm nhất, trước bản Nôm AB.383
khắc hay viết là 多 hay [鳥多] mới có thể quả quyết Bà Huyện Thanh Quan dùng “cái đa đa” chứ không phải là da da/gia gia. Đây cũng là sự phủ định đối với ý kiến vô căn cứ của
An Chi khi ông viết một cách võ đoán, trịch thượng:“Gia gia” cũng đâu có phải là tiếng kêu của
con đa đa! Đúng như thế và đây là một căn cứ tối quan trọng: Con đa đa đâu có
kêu “gia gia”(…) Thế mà người ta đã chấp nhận nó một cách thụ động hàng trăm
năm nay và còn hân hoan khen lấy khen để, hoàn toàn không biết rằng “cái gia
gia” chỉ là một cấu trúc rỗng tuếch về ngữ nghĩa và sai bét về ngữ pháp. Khôi hài nhất là hàng trăm
năm nay, từ cái cấu trúc dỏm đó, các “nhà có uy tín” kia đã suy ra được những
cái ý dễ làm rung động lòng người về gia đình, đất nước”[37].
IV. “gia gia” và nghệ thuật dùng chữ của Bà Huyện Thanh Quan
Với tình
hình văn bản hiện nay như chúng tôi đã dẫn ra, cho phép ta tin rằng Bà Huyện
Thanh Quan thực sự viết [家鳥],
家 (thanh phù gia) và sẽ có thể đọc là:
1/ DA DA: “Thương nhà mỏi miệng cái da da”. “da da” có thể hiểu là biến âm của “đa đa” và câu trên “Nhớ
nước đau lòng con cuốc cuốc” (cuốc chứ không phải là quốc). Nhưng nếu chỉ có thế (da da chẳng qua chỉ là đa đa), 2 câu thơ sẽ trở nên rất bình
thường và không có gì đáng tranh luận. Cho nên, ta có thể suy luận hợp lý: nhà thơ cố ý một cách khác thường để nhất định
dùng “da da” mà không dùng “đa đa” như muốn người đọc phải liên tưởng đến một
âm khác đó là:
2/ GIA GIA: “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.
Tại sao là “gia gia”? Đây chính là một vấn đề lý thú. Nhưng trước hết cần phải
đặt dấu hỏi: Tại sao nhà thơ không dùng
ĐA ĐA, một tên gọi quá quen thuộc, phổ biến toàn quốc ít nhất từ thế kỷ 17 cho
đến ngày nay mà lại như cố ý dùng GIA GIA?
Sao không có một bản Nôm nào truyền lại viết là 多多
hay [鳥多] [鳥多] để đọc thành 2 câu thơ rất bình thường, dễ hiểu như: “Nhớ
nước đau lòng con cuốc cuốc. Thương nhà mỏi miệng cái đa đa”? và sẽ chẳng có gì đáng phải tranh cãi
hay khen chê cho mất thời gian, tốn giấy mực cả. Đây là một phản đề rất quan trọng
để đi đến khẳng định về từ ngữ “gia gia” là một cách chọn lọc chữ nghĩa rất
tinh tế của nhà thơ. Bà Huyện Thanh Quan nếu viết [家鳥], 家 là có dụng tâm, dụng ý về tu từ, theo chúng tôi cảm nhận, nhà
thơ đã chọn âm “gia gia”, vừa giống với
“da da” – chim đa đa – (thật ra trong tiếng Việt ngày xưa, các phụ âm D và GI hòa lẫn, không
phân biệt rõ như ngày nay) vừa liên tưởng đến tiếng kêu “gia gia” như văn, thơ chữ Hán (Việt – Hoa) đã từng dùng và gợi đến ý niệm gia/nhà theo ý “thương nhà: mỏi miệng”. Không chỉ có thế, GIA GIA sẽ
ứng đối với QUỐC QUỐC ở câu trên. “cuốc cuốc” là tên chim cuốc, nhưng ở đây dùng điệp tự cho ứng với con da
da/gia gia như một bài thơ trong Hồng Ðức Quốc Âm Thi Tập từng viết: “Ðậu lá võ
vàng con bướm bướm. Ấp cây gầy guộc cái ve ve”[38], con bướm/
bướm bướm , con ve/ve ve là bình thường trong tiếng Việt xưa nay. “cuốc” đồng
âm “quốc” nên sẽ là QUỐC vì QUỐC vừa giống
với “cuốc” (chim) vừa liên tưởng đến tiếng
kêu “cuốc cuốc/quốc quốc” như thơ chữ
Hán (Việt – Hoa)[39] và sẽ gợi ý niệm quốc/nước theo ý “nhớ nước: đau lòng” ở đầu câu.
Đây chính là tài năng làm thơ độc đáo của
Bà Huyện Thanh Quan. Khi đọc ngâm 2 câu thơ 5 và 6, tiếng Việt sẽ như sau:
“Nhớ nước đau lòng
con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái
da da”
Nhưng ngẫm ra mới thấy thủ pháp chơi chữ tài tình: cuốc/quốc và da /gia và như vậy khi viết chữ Việt cần phải viết QUỐC và GIA nhằm
thể hiện rõ phép tu từ của tác giả.
“Nhớ nước đau
lòng con QUỐC QUỐC.
Thương nhà mỏi
miệng cái GIA GIA”
V. Thay lời Kết
Qua những tìm
hiểu và luận chứng ở trên, chúng tôi nhận thấy rằng cách đọc “gia gia” từ các bậc
tiền bối là hoàn toàn hợp tình hợp lý vì văn bản chữ Hán, Nôm truyền lại cũng
như các bằng chứng về ngữ âm lẫn tiếng kêu của chim đa đa đã chứng minh một
cách xác đáng. Sự cảm thụ cũng như nhận thức thấu đáo của tiền nhân về nghệ thuật
dùng chữ của Bà Huyện Thanh Quan là đáng trân trọng. Chúng tôi muốn nhấn mạnh
thêm một vài ý quan trọng như tái khẳng định quan điểm của các tiền bối: Nhà
thơ nhất định không viết chữ Nôm là 多多 hay [鳥多] [鳥多] (không
hề có dị bản viết 多 hay [鳥多]) nghĩa là từ chối âm
đọc “đa đa” rất phổ biến trong tiếng Việt trước và ngay trong thời đại của mình
nhưng đã chọn lựa tinh tế âm đọc “da da/giagia” và viết chữ Nôm là [家鳥], 家 như muốn gợi ý cho người đọc liên tưởng ngay đến tiếng kêu
“gia gia” của chim đa đa, hơn nữa , “gia” còn gợi ý niệm nhà và thể hiện sự ứng đối với “cuốc cuốc/quốc quốc” ở câu trên. Cho
nên, cuối cùng, vẫn là CÁI GIA GIA, hiểu như một tên gọi khác của chim da da/ đa đa. Bằng chứng cho cách đọc GIA GIA chính là tiếng kêu “jiā”, “gia” và “gia gia” của chim giá cô trong thư
tịch Hoa – Việt và cách viết 家, [家鳥] trong văn bản chữ Nôm AB.383.
Vậy thì, 2 câu thơ đặc sắc trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan xưa
nay vẫn là:
“Nhớ nước đau
lòng con QUỐC QUỐC.
Thương nhà mỏi
miệng cái GIA GIA”
Rất mong rằng, bài viết này sẽ đem lại sự yên tâm và vẻ đẹp
của thi ca đến với các bạn yêu thích thơ, văn học Việt Nam và các thầy cô cùng các sinh
viên, học sinh.
Biên hòa ngày 26 tháng 02 năm 2014
[1] Xin xem:
1- An Chi:
Cái “gia gia” chẳng là… cái gì cả!
Vẫn cứ là cái đa đa (Tạp chí Đương Thời số 11-2009)
Không thể không là cái đa đa
Không nên lẫn lộn các giống chim
2- Nguyễn Quảng Tuân, Cuốc cuốc – da da” hay “Quốc quốc - gia gia”
3 - Vương Trung Hiếu.
Cái gia gia là … cái nhà!
Trao đổi về giống chim
Lại bàn về giống chim
[5] Ôn Như
Nguyễn Văn Ngọc, Nam thi hợp tuyển, Vĩnh Hưng Long Thư Quán,
1927, Xuất Bản Bốn Phương (Tái bản),
1952
[6] Georges
Cordier, Etude sur la littérature
annamite, Saigon 1933
[7] Ngô Tất
Tố, Thi văn bình chú, Nxb Văn Học, Trung tâm Văn hóa Đông tây (tái
bản theo bản in lần đầu 1941). 2010
[8] Dương
Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử yếu, 1941, Chương
thứ IV, Trung tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục (in lần thứ 10), Sàigòn, 1968.
[9] Hạo
Nhiên Nghiêm Toản, Việt Nam Văn Học Sử
Trích Yếu (tập 1). Nhà Sách Vĩnh Bảo Sài Gòn 1949
[10] Lệ Thần
Trần Trọng Kim, Việt Thi, Nxb Tân
Việt . 1949
[11] Nguyễn
Tường Phượng – Phan Văn Sách - Bùi Hữu Sung, Việt văn diễn giảng hậu bán thế kỷ thứ XIX,. Tài Liệu Giáo
Khoa, Hà Nội.1953
[12] Thanh
Nghị, Việt Nam tân từ điển minh họa, nhà
sách Khai Trí. 1967
[13] Xem chú
thích 1, An Chi
[14] Đỗ Thị
Hảo (chủ biên), Các nữ tác gia Hán Nôm
Việt Nam,
Nxb KHXH. 2010
[15] Maurice
Durand, Quốc văn tùng ký, AB.383
nguồn http://findit.library.yale.edu/catalog/digcoll:34770
[16] L.m
An-tôn Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán
Việt, Nxb Đà Nẵng & Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm Hoa Kỳ, Đà Nẵng. 2004
[18] Nguyễn
Quang Hồng (chủ biên), Tự Điển Chữ Nô, NXB Giáo Dục 2006
[19] Nguyễn Hữu Vinh, Ðặng Thế Kiệt, Nguyễn Doãn Vượng, Lê Văn
Ðặng, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Ngọc Bích, Trần Uyên Thi, Tự điển chữ Nôm trích dẫn, Viện Việt Học
ấn hành, 2009.
[20] P.J.
Pigneaux, Dictionarium Anamitico -
Latinum, (bản thảo viết tay) (1772-1773).
Nguồn: bản pdf của NNT trong Diễn đàn
VVH (viethoc.com)
[21] Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại
Nam Quấc âm tự vị, Tom I-II Sài Gòn 1895-1896, Nxb Trẻ, tái bản 1998.
[22] Hội Khai Trí Tiến Đức, Việt
Nam
tự điển, Hà Nội, 1931, Mặc Lâm tái bản, 1968.
[23] Alexandro de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et
Latinvm, bản dịch tiếng Việt của
Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, Nxb Khoa học Xã hội, 1991
[24] Tam thiên tự giải dịch quốc ngữ (ký hiệu
R.1667), Liễu Văn Đường Tàng Bản, khắc in năm 1915, (Nomfoundation.org)
[25] Nguyễn
Bỉnh, Ngũ thiên tự dịch Quốc ngữ, bản
khắc in năm 1909, ký hiệu R.1554 (Nomfoundation.org).
[26] Phan
Đăng (dịch), Thơ văn Tự Đức (tập 3), Nxb Thuận Hóa , Huế. 1996
[27] Lã Minh
Hằng ( khảo, phiên, dịch chú), Khảo
sát từ điển song ngữ Hán -Việt, Đại Nam quốc ngữ (Nguyên bản Nguyễn Văn
san), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2013
[28] J.F.M
Génibrel, Dictionnaire Annamite –
Français, Deuxième édition, Tân Định, Saigon
1898, nguồn sách phổ biến từ books.google.com
[29] Nguyễn
Ngọc San, Thử bàn về vấn đề phiên Nôm,
Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm .2004, Thư viện Quốc gia Việt Nam – Hà Nội
[30] Đặng Đức Siêu, Nguyễn Ngọc San, Ngữ văn Hán Nôm,
tập 2, Nxb Giáo Dục, 1988
[31] Quách
Tấn, Nét
bút giai nhân, NXB Phụ Nữ 1998
[32] Nguyễn
Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Sự
tích chim đa đa, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà nội 2000
[33] Đỗ Đức
Hiểu, Mai Thục, Nguyễn Văn Khỏa, Điển tích văn học: 100 truyện hay Đông Tây kim
cổ, NXB Khoa Học Xã Hội – Mũi Cà Mau, 1990
[34] Hán
Điển, nguồn http://www.zdic.net/c/d/13e/308171.htm
[35] Từ nguyên (tu đính bản) Thương Vụ Ấn Thư
Quán, Bắc Kinh 1998
[36] Lã Minh
Hằng ( khảo, phiên, dịch chú), Khảo
sát từ điển song ngữ Hán -Việt, Đại Nam quốc ngữ (Nguyên bản Nguyễn Văn
san), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2013
[37] An Chi,
Không thể không là cái đa đa, nguồn:http://www.vanhoahoc.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=2376%3Aan-chi-khong-the-khong-la-cai-da-da-&Itemid=71&catid=21%3A
[38] Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên, Hồng
Đức quốc âm thi tập, (in lần thứ hai
có sửa chữa) Nxb Văn học, Hà Nội., 1982.
[39] Tiếng
chim cuốc kêu “cuốc cuốc” đã xuất hiện trong bài thơ “Lại vịnh nắng mùa hè”
trong Hồng Đức quốc âm thi tập (sđd),
ở câu: “Cuốc cuốc, cuốc hằng khua mõ cuốc”
(Đã đăng trên Tạp chí Sông Hương số tháng 4/2014)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét