Đinh Văn Tuấn
Có một số địa danh thuộc Biên Hòa xưa nay cho đến nay đã để
lại nhiều nghi vấn và các nhà nghiên cứu sử học, địa danh học vẫn chưa lý giải
thấu đáo, thống nhất. Nguyên nhân do thư tịch để lại không nhiều, ghi chép đại
lược, dị biệt và về chữ viết có nhiều tự dạng, âm đọc biến đổi qua các thời kỳ lịch sử đã gây khó khăn trong
việc tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa các
địa danh. Bài viết này sẽ cố gắng tìm hiểu sâu hơn với hy vọng làm sáng tỏ các
nghi vấn về địa danh Biên Hòa.
1/ Đồng Nai:
Trong sách Địa chí Đồng Nai[1] đã viết: “Nguồn gốc
của địa danh “Đồng Nai” vẫn chưa rõ. Dân gian quen giải thích do cánh đồng có
nhiều nai (cùng cấu trúc gọi tên các địa danh: Hố Nai, Đồng Hươu, Rạch Nai, Bàu
Nai, Mũi Nai...). Cũng có ý kiến cho rằng Đồng trong Đồng Nai là cách gọi biến
âm từ chữ Đờng trong Đạ Đờng (Sông Cái) của người Mạ; bởi vì còn có rất nhiều tên
gọi khác bắt nguồn từ chữ Đồng (Đờng?) mà không phải là cánh Đồng: Đồng Tranh,
Đồng Môn, Đồng Tràm, Đồng Trường...” cũng trong sách Lịch sử và Văn hóa Cù Lao Phố [2], Huỳnh Ngọc Trảng đã dẫn lý giải của J.Boulbet, tác giả
sách Pays des Maa', domaine des
génies. Nggar Yaang – E.F.E.O, Paris 1967: “ Ddá, là nước, dòng nước, chất lỏng; Đạ Ddờng (Ddá Doong) là dòng
sông, ở đây chỉ sông Đồng Nai thượng, người Mạ có dòng sông riêng của họ , và
đặt tên là sông Cái, đây là cách gọi dành riêng cho giòng sông đó”, nghĩa
là Đồng trong Đồng Nai không phải là “cánh đồng có nai” mà chỉ là tên gọi sông
(Ddờng). Những ý kiến này khiến cho độc giả
phân vân không hiểu thực ra địa danh Đồng Nai xưa có nguồn gốc và ý nghĩa gì?
Tài liệu sớm nhất về địa danh Đồng Nai hiện
biết chỉ ở thời điểm năm 1700, được ghi nhận bằng chữ La tinh ký âm là “Đơm
nay” theo Đỗ Quang Chính [3]: “Trong bản tường trình của cha Dt Juan
Antonio Arnedio vào năm 1700 viết về cuộc bách
hại đạo do Minh vương Nguyễn Phúc Chu ra lệnh từ 13/3/1700 đã ghi nhận: “Đơm nay” : Đồng Nai..” và theo tài liệu của Trương Bá Cần[4], đã cho biết, qua bản tường trình viết vào năm 1701 của
thừa sai Gouge, thân sinh của linh mục Laurent cùng với một số người trong gia
đình đã đến vùng Dou-Nai khai phá, cày cấy từ 29 năm trước. Thư của phó giám
mục Labbé (1710) gởi Ban giám đốc Chủng viện Truyền giáo nước ngoài viết: “Có một miền gọi là Dou-Nai ở giữa Cao Miên
và Chiêm Thành đây là một vùng đồng bằng, đất tốt, khá rộng và dài, rừng rậm,
cây to, nơi mà người Đàng Trong đến lập nghiệp từ 35 hay 40 năm nay”. Đơm Nay hay Dou-Nai, thời điểm 1700 -1701 ở đây chính là đất Đồng Nai, rất gần
với thời kỳ Trần Thượng Xuyên (1679) vào Đồng Nai đồn trú, khai phá và Nguyễn Hữu Cảnh (1698)
vào Nam
kinh lý, xác lập hành chính. Rất có thể tên gọi “Đồng Nai” đã xuất hiện từ thuở
các lưu dân Việt vào khai phá Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai trước sự kiện Trần
Thượng Xuyên. Về văn tự Hán Nôm, Pigneaux de
Béhaine trong Tự điển An Nam - La tinh (1772-1773)[5] viết chữ Nôm là 仝 狔 Đồng
Nai: Tỉnh của Đàng trong; Trịnh Hoài Đức
chép trong Gia Định Thành Thông Chí[6]: “Đồng Nai 仝 狔 là tên duy nhất của trấn Biên Hòa, (…) Do
ban đầu là cánh đồng cho nai hươu ở, cho nên mới gọi là Đồng Nai, tên chữ là
Lộc Dã, còn gọi là Lộc Động.” và sau đó các thư tịch khác cũng đều viết và chú
giải tương tự: Đại Nam nhất thông chí[7]: “…vì trước kia là
đồng nội lắm hươu nai, nên gọi tên
thế”; Đại Nam Quốc âm tự vị [8](1895 - 1896) - Huỳnh Tịnh Của ghi nhận: “Đồng nai: Cuộc đất minh mông ở tại Biên
Hòa, thường hiểu chung là đất Nam Kỳ.”; Từ điển Việt- Pháp (1898)[9] - Génibrel ghi: “La
plaine aux cerfs” (Cánh đồng nhiều nai); Việt Nam tự điển [10]- Hội Khai Trí Tiến Đức (1931): “Đồng Nai: Tên một xứ ở vào lưu vực sông Đồng Nai”. Như vậy theo
thư tịch cũng như tập truyền, “Đồng Nai” là tên ban đầu chỉ vùng đất miền Nam,
nơi cánh đồng có nhiều nai chứ không
phải là tên gốc của con sông Cái. Tên sông Đồng Nai có sau tên gọi đất, cho nên
ý kiến của J.Boulbet về tên gọi Đồng Nai có gốc từ tiếng Mạ, theo chúng tôi là
không vững, thiếu thuyết phục. J.Boulbet
còn suy đoán tiếng “Nai” có thể là biến thể từ ning nghĩa là dốc đứng vậy Đồng Nai = Đờng Ning: sông Cái có bờ dốc
đứng! Chúng tôi chưa thấy trong tiếng Việt có hiện tượng chuyển vần từ /ing/
thành /ai/, đây là một sự gượng ép thái quá về ngữ âm.
Tên gọi nguyên thủy của sông Đồng Nai
hiện không có sách nào ghi lại, trong Hoàng
Việt nhất thống dư địa chí[11] chỉ thấy tên gọi sông Đồng Nai 仝 狔 chứ không thấy gọi là sông Phước
Long (Phước Long giang) hay sông Phước (Phước giang). Tên gọi sông Phước Long
theo Đại Nam nhất thống chí, là sông
lớn của phủ Phước Long nên lấy tên ấy đặt tên sông, còn có tên khác là sông Hòa
Quý tục gọi sông Đồng Nai, cũng theo sách này, trước đời Gia Long là huyện
Phước Long đến năm Gia Long thứ 7 (1808) mới thăng làm phủ Phước Long (sách Gia Định thành thông chí cũng ghi chép
như vậy). Bộ Hoàng Việt nhất thống dư địa
chí được Lê Quang Định soạn năm Gia Long thứ 5 (1806) không nhắc đến tên
sông Phước Long là dễ hiểu vì phủ Phước Long thành lập vào năm 1808. Tên “Đồng
Nai” cũng được đặt cho tên chợ thuộc đất ấy là chợ Đồng Nai. Nhân đây xin lưu ý,
chợ Đồng Nai xưa không phải là chợ Tân Lân (tên cũ là Bàn Lăn) nay là chợ Biên
Hòa mà xưa nay vẫn cho là chợ chính (chợ Dinh) của đất Đồng Nai (Trấn Biên,
Biên Hòa), vì như Lê Quang Định ghi chép trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí về chợ Đồng Nai: “Chợ thôn Tân Vạn, chợ ở phía bờ Nam. Tục
gọi là chợ Đồng Nai, quán xá hai bên chợ rất sơ xài , người buôn bán cũng it
ỏi” ; chợ Tân Lân: “Chợ thôn Tân Lân,
chợ ở phía bờ Bắc, tục gọi là chợ Bàn Lăn, quán xá rất đông đúc, người buôn bán
rất tấp nập” và Đại Nam nhất thống
chí chép về chợ Đồng Nai: “Chợ Lộc
Dã: ở phía Nam hạ lưu Phước Long huyện Phước Chánh, vì trước kia là đồng nội
lắm hươu nai, nên gọi tên thế, hoặc gọi Lộc Động, tục gọi chợ Đồng Nai” ;
Chợ Tân Lân: “Ở thôn Tân Lân huyện Phước
Chánh, tục gọi chợ Bàn Lăn ; quán xá trù mật, xưa Trần Thượng Xuyên đóng đồn ở
Bàn Lăn, tức là đây”. Rõ ràng chợ Tân Vạn thời Nguyễn (huyện Phước Chánh, phủ Phước Long), xưa có tên là chợ Đồng Nai, tên chữ là Lộc Dã, đây mới
là tên gọi xưa của cái chợ thuộc vùng đất mang tên Đồng nai. Năm 1679, Trần
Thượng Xuyên được phép chúa Nguyễn cho vào đất Đồng Nai để đồn trú và khai phá,
đoàn thuyền của ông đi theo đường biển đến cửa biển Cần Giờ sau đó đi ngược
theo sông Đồng Nai nhưng không ghé đất Tân Vạn vì ở đó đã có người Việt lập
nghiệp rồi (đã có chợ Đồng Nai) nên đầu tiên mới đặt chân đến đất Bàn Lăn (dân
cư Việt , Miên, Mạ… thưa thớt), địa điểm này chính là chỗ có chợ Bàn Lăn sau
đổi là chợ Tân Lân (chợ Biên Hòa). Người Hoa định cư, lập chợ Bàn Lăn phát
triển sầm uất lên nhưng sau cùng Trần Thượng Xuyên đã quyết định dời trụ sở về
cù lao bên kia sông để lập ra thương cảng cù lao Đại Phố thịnh vượng nhất thời
ấy. Sau khi Cù Lao Phố hình thành, chợ Bàn Lăn thuộc về người Việt và
trở thành trung tâm của Trấn Biên, thời điểm này chính là lúc Nguyễn Hữu Cảnh
vào Nam kinh lý. Những sự kiện trên cộng thêm chiến
tranh liên miên giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh đã là nguyên nhân chính khiến cho
chợ Đồng Nai bị lấn át và trở nên thưa thớt như Lê Quang Định đã ghi chép.
Các lưu dân người Việt ban đầu thời trước khi người
Hoa đến lập nghiệp và Nguyễn Hữu Cảnh
kinh lý Nam
bộ, đã sinh sống, khai khẩn đất hoang ở đó khá lâu rồi. Người Việt đã gọi tên
một vùng đất có nhiều nai là Đồng Nai và đặt luôn con sông chảy qua vùng đất
này là sông Đồng Nai cũng như chỗ họp chợ ở đó là chợ Đồng Nai. Tên gọi nguyên
thủy của đất Đồng Nai xưa thuộc xứ Cao Miên là gì hiện không có tài liệu nào
ghi chép, chỉ biết rằng vùng đất này đã từng được thư tịch gọi là Đông phố[12], có thể thuộc thủ phủ của Cao Miên hay là cách gọi tắt
của tên gọi Đông Phố Trại?, tên do người Hán đặt cho Cao Miên. Ngoài tên gọi
Đồng Nai ra còn được gọi là Lộc Dã, Lộc Động những tên này chỉ là tên chữ Hán
dựa theo nghĩa tục truyền về vùng đất có nhiều nai. Đặc biệt là tên gọi Nông
Nại do nhà Thanh đặt cho đất Đồng Nai, ám chỉ đất miền Nam do chúa Nguyễn khai
phá và Nguyễn Ánh thiết lập triều chính ở Gia Định để chống đối Tây Sơn. Theo Trịnh
Hoài Đức chú giải trong Gia Định thành
thông chí (sđd): “Nông Nại (Gia Định
tục gọi là Đồng Nai, người Thanh gọi Gia Định là Nông Nại)” và trong sách Gia Định tam gia[13], ở lời chú bài thơ Sứ
hành tự thuật, tác giả đã giải thích rõ hơn: “Thành Gia Định, thường gọi là Đồng Nai, thổ âm Quảng Đông gọi là
Nông Nại”. Trước khi Trịnh Hoài Đức đi sứ Thanh vào năm 1802 thì tên gọi
Nông Nại đã được lưu danh ở Trung Quốc rồi vì trong sách Đại Thanh Thực Lục[14] đã ghi nhận như sau, năm Càn Long thứ 56 (1791) : “Nguyễn Quang Bình nhận được thông báo về
việc tìm bắt bọn cướp biển, liền sức cho các đồn duyên hải nước này khẩn cấp
tuần phòng, và bổ nhiệm Ngô Văn Sở chức Thủy quân Đô đốc, phân tán binh lực
tuần tra tập nã. Đến như bọn cướp trong vụ án này, trước đây lẩn trốn ở vùng
Đoản Miên, Nông Nại”.
Tóm lại, địa danh “Đồng Nai” do lưu dân
miền Nam hồi nửa đầu thế kỷ XVII vào khai khẩn đất hoang đã đặt tên thuần Việt
theo ý nghĩa là cánh đồng có nhiều nai,
sau đó dùng tên đất để gọi tên sông Cái chảy qua vùng đất ấy là sông Đồng Nai
và chỗ họp chợ buôn bán cũng được gọi là chợ Đồng Nai. Trung tâm quần tụ chính
buổi ban đầu có lẽ là thôn Tân Vạn, nay là phường Tân Vạn, Biên Hòa.
2/Bàn Lăn:
Sử sách chép
Trần Thượng Xuyên, được phép của Chúa Nguyễn đi thuyền theo cửa biển Cần Giờ
rồi đầu tiên đến đất Bàn Lăn thuộc Biên Hòa để đồn trú và khai phá, sau đó
chuyển về cù lao bên kia sông để lập Cù Lao Phố nổi tiếng. Trong các sách Đại nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục,
Gia Đinh Thành thông chí viết Bàn Lăn chữ Hán là 盤轔 nhưng trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí (sách địa chí xưa nhất thời
Nguyễn) viết chữ Nôm là [木盤][木轔], vậy đó là loài thực vật (bộ mộc
木). Theo tự vị An nam La tinh (1772)
của P. Béhaine, có cây bàn lăn (một loại cây gỗ) và
trong Đại Nam quốc âm tự vị (1895)
của Huỳnh Tịnh Của lại viết là bàn lăn hoặc bàng lăn và bằng
lăng, một loại cây gỗ dùng làm mái chèo. Sách Gia Đinh Thành thông chí, ghi chép: “Cây bàn lăn hoa và lá giống cây tử kinh, thớ gỗ trắng ngà, dùng làm rui
mè, cột trụ và mái chèo; rễ cây chỗ gốc cong queo nổi u kỳ quái, hoặc giống
hình người, hoặc hình chim muông hoa lá, dùng làm ống cắm bút, dĩa bày quả, có
vẻ đẹp tự nhiên cổ kính.” Như vậy dù
viết 盤轔 hay [木盤][木轔], cũng đều ký âm cho bàn lăn, do đó cách phiên là Bàn Lân hay
Bàng Lân của các dịch giả, sử gia trước
nay là không chính xác.
Địa danh Bàn Lăn là vùng đất có nhiều
cây bàn
lăn (tên gốc ngày xưa), nhưng do người
miền Nam
đọc trại ra là bàng lăn rồi bằng lăng. Theo Sơn Nam[15] Bàn Lân là tiếng bằng
lăng nói trại ra, Sơn Nam
đã đoán đúng về tên cây nhưng ông nói sai là từ bằng lăng bị đọc trại ra bàn
lân. Theo chuyên khảo Monographie de la province de Bien Hoa[16] của M. Robert (1924)
thì Ban Lan lại ở Bến Gỗ, không hiểu tác giả đã căn cứ vào tài liệu nào? Nhưng
cứ theo thư tịch cổ thì Bàn Lăn phải ở chỗ gần chợ Biên Hòa vì tên chợ xưa cũng
gọi là chợ Bàn Lăn, sau là chợ Tân Lân (Hoàng
Việt nhất thống dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí), chợ Biên Hòa hiện nay.
Cũng còn một lý giải khác về Bàn Lăn: Nguyễn Thái
Liên Chi trong Địa danh Đồng Nai mang tên
động vật và thực vật[17] đã dẫn Jean
Boulbet (Descriptions de la végétation en
pays Maa, 1960) Mô tả thảo mộc ở xứ người Mạ, BSEI) như sau: Bằng Lăng là
tên loại cây blaang của người Mạ là một loại cây gạo, gọi là cây gạo Malaba Ấn
Độ. Loại cây này “đốn từ trong rừng đem về trồng ở buôn làng để làm cọc hiến
sinh (người ta buộc con trâu để giết tế lễ vào đó); cây cọc này sẽ đâm rễ xanh
tươi trở lại và đây là di tích chỉ báo sự chiếm ngụ của con người trên vùng đất
đã bị bỏ đi.” Có lẽ Boulbet thấy có sự đồng âm Mạ và Việt nên mới suy đoán là
cây gạo nhưng cây gạo này thật có ở Biên Hòa không và tên gọi Việt của nó là gì,
thư tịch nào ghi chép? Nếu chỉ là “Bàn Lăn” thì như đã dẫn chứng, Bá Đa Lộc năm
1772 đã từng ghi nhận và Trịnh Hoài Đức (1820) đã mô tả đúng cây bàn lăn là cây phổ biến ở Biên Hòa, Gia
Định rồi. Thế thì không còn nghi ngờ gì nữa, Bàn Lăn là tên gọi của địa danh ở
Biên Hòa, nơi vùng đất ven sông có nhiều cây bàn lăn, tiếng Việt hiện đại là bằng
lăng.
3/Cù Lao Phố (cù lao Đại Phố):
Địa danh Cù Lao Phố ở xã Hiệp Hòa, Biên Hòa xưa
nay có nhiều tục danh: Đại Phố, Nông Nại Đại Phố, Đông Phố (Giản Phố), Cù
Châu...[18] Nhưng tên gọi phổ biến nhất xưa nay vẫn là Cù Lao Phố. Vậy
nguồn gốc và ý nghĩa địa danh này ra sao?
Trước hết xin
bàn về “cù lao”: Sách chữ quốc ngữ sớm nhất nói về cù lao là tự điển Việt – Bồ - La[19] của Đắc Lộ (1651), Cù
lao: cù lao. Núi nước, gò nước, cùng một nghĩa sau đó là tự vị An Nam – La Tinh (1772) của Bá
Đa Lộc và Đại Nam quốc âm tự vị của
Huỳnh Tịnh Của cũng đều giải thích: Hòn nổi giữa sông, giữa biển. Về chữ Hán
Nôm, Bá Đa Lộc viết là 劬劳(=勞), chữ
giả tá cho cù lao. Trong Hoàng Việt nhất thống dư điạ chí, Lê
Quang Định viết với bộ sơn 山 (núi, đồi): [山(trên)
勾 (dưới)], [山(trên), 勞(dưới)] để ký âm cù lao (hòn nổi giữa sông). Về ý nghĩa
nói chung xưa nay đều thống nhất (Bùi Đức Tịnh, Lê Trung Hoa…) nhưng Lê Trung
Hoa còn cho rằng có thể nguồn gốc tên cù lao là do tiếng Mã Lai pulau ( poulo)
nghiã là đảo, tuy nhiên theo chúng tôi, âm đầu /p/ khó mà chuyển thành /c, k/
nên cần phải tìm hiểu lại. Tiếng Việt (Nôm) cù có nghĩa là xoay vòng như “con
cù” nên đây có thể là từ ghép cù+lao mà lao chính là gốc tiếng Mã lai “pulau’
nói tắt là “lao”, như nước Pha lang sa (Pháp) sau gọi là Lang sa vậy. Vậy cù
lao: đất nổỉ giữa sông biển, có nước xoay vòng. Về chữ Phố thì nói chung sách
Hán Nôm đều viết 鋪 hay 舖 nghĩa Hán là cửa hàng buôn bán,
phố xá. Nên Cù Lao Phố: Cù lao nơi có phố xá đông đúc mà ở Biên Hòa xưa chính
là phố Tàu do Trần Thượng Xuyên khai phá, mở mang sau khi dời từ Bàn Lăn (nơi
đồn trú ban đầu) chỗ chợ Biên Hòa ngày nay về cù lao bên kia sông. H. Của ghi
nhận, “Cù lao phố: Cù lao lớn ở tại tỉnh
Biên hòa, nguyên là chỗ có nhiều phố xá; cũng gọi là Đông phố”.
Tên
gọi ban đầu hiện không có sách nào ghi chép, có thể là Đại Phố, Đồng Nai phố
(Nông Nại phố) hay Đông Phố. Lý Văn Quang Năm 1747 cầm đầu một nhóm khách
thương người Phúc Kiến qua lại buôn bán, thấy Cù lao Phố rất giàu có nên dậy
lòng tham muốn chiếm lấy để làm chỗ dung thân lâu dài, tự xưng là Đông Phố Đại
Vương. Thư tịch cổ hay nói Đông Phố 東浦[20] chỉ đất Gia Định xưa, Trịnh Hoài Đức chép trong Gia Định thành thông chí: “xứ Đông Phố (một tên khác của đất Gia Định
xưa) của nước Cao Miên, đất đai màu mỡ có đến ngàn dặm, triều đình chưa rỗi để
lo liệu, chi bằng tận dụng sức lực của họ, giao cho họ khai hoang đất đai để ở,
ấy cũng là một cách làm mà được ba điều lợi. Nghĩ vậy, triều đình mới tổ chức
khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh
cho tới Nông Nại (Đồng Nai) làm ăn, gắng sức khai thác đất đai” . Sách Doanh hoàn chí lược chép[21]: “Cõi Nam giáp biển có đô hội gọi là trại
Đông Phố, là kinh đô cũ của Chân Lạp” . Như thế có thể hiểu Đông Phố là tên
gọi vùng đất thuộc thủ phủ của nước Cao Miên (Chân Lạp) xưa (xem thêm chú thích
số 12) hay chỉ chung vùng đất miền Nam xưa thuộc Cao Miên. Còn tên gọi
Đồng Nai mới là tên gọi bản địa của người Việt chỉ vùng đất có nhiều nai thuở mới khai phá. Nhà Thanh gọi tên chữ là Nông
Nại 農耐, theo Trịnh Hoài Đức chú giải trong Gia Định thành thông chí: “
Nông Nại (Gia Định tục gọi là Đồng Nai, người Thanh gọi Gia Định là Nông Nại”.
Vậy gọi Nông Nại (Đồng Nai) hay Đông Phố chẳng qua là lấy tên chung để gọi cho
cù lao Đại Phố mà thôi. Đại Nam thực lục
tiền biên chép: “Năm 1747, “khách
buôn người Thanh là Lý Văn Quang đánh úp dinh Trấn Biên. Cai cơ Tống Phước Đại
đánh dẹp được. Văn Quang người Phúc Kiến sang ngụ ở bãi Đại Phố, Biên Hoà.”.
Trịnh Hoài Đức cũng chép là Đại Phố châu 大舖州(= cù lao Đại Phố) hay ở phía nam cù lao Đại Phố 大舖 . Thế thì tên gọi Đông Phố 東浦 Đại Vương (vua cả vùng đất ven
sông) do Lý Văn Quang đặt ra sau khi đánh úp Trấn Biên có lẽ ngầm xóa bỏ tên
Đại Phố 大舖 (cù lao có
phố xá người Hoa) của Trần Thượng Xuyên và ám chỉ đất Đồng Nai (để ý chữ
舖 (phố xá)
trong cù lao Đại Phố khác với chữ 浦 (bến sông) trong Đông Phố).
Tóm
lại, Cù Lao Phố có thể là từ ghép: Cù
(Việt) + Lao (gốc Mã Lai) + Phố (Hán) nghĩa là một vùng đất nổi nằm giữa có sông
bao bọc vòng quanh là nơi có phố xá thịnh vượng của người Hoa và có thể khẳng
định tên gọi ban đầu do Trần Thượng Xuyên đặt cho cù lao (xã Hiệp Hòa, Biên
Hòa) là Đại Phố (chợ lớn) gọi tắt là Phố
trong “cù lao Phố”.
4/ Cù lao Tân Triều:
Cù lao Tân
Triều, huyện Vĩnh Cửu , Biên Hòa tên gọi này đã từng bị hiểu lầm là “triều đình
mới”, “kinh đô mới” do Nguyễn Ánh thiết lập ở Trấn Biên, Biên Hòa để đối đầu
với nhà Tây Sơn chẳng hạn như tác giả Mathilde Tuyết Trần qua bài viết Đi tìm
dấu vết Bá Đa Lộc (Mgr Pigneau de Béhaine)[22] )… Không phải sự hiểu lầm
chỉ có ở các tác giả Việt Nam nhưng thật ra ngay từ năm 1863 Aubaret dịch giả
sách Gia Định thành thông chí ra tiếng Pháp, có lẽ là người đầu tiên lầm lẫn
khi cho Tân Triều là “lâu đài, triều đình mới”[23] Nguyên nhân lầm lẫn này có 2 lý do: 1/ Giám mục P. Béhaine chạy chốn Tây Sơn đã về vùng cù
lao Tân Triều để lập chủng viện và sau đó Nguyễn Ánh đã từng tới lui trao đổi,
bàn quốc sự với Giám mục ở Tân Triều, do đó người ta lầm tưởng Tân Triều là
triều đình mới. Linh mục Louvet, người viết tiểu sử Đức giám mục Pigneau, cho
biết rằng: “những lúc không bận hành quân
xa, Nguyễn Phúc Ánh có nhiều cuộc gặp gỡ với ĐGM Pigneau. Lúc thì ông mời ngài
tới nơi mình ở tại Biên Hòa, lúc thì ông với 2 hay 3 vị quan tới thăm ngài ở
Tân Triều...”[24] 2/ Do tên gọi
âm Hán Việt và chữ viết La tinh là “Tân triều”: Tân 新 nghĩa Hán là mới và triều có 2
nghĩa: a/ Triều 朝: Nơi
vua tôi bàn chính sự (ngày xưa). Như: triều đình 朝廷 và b/ 潮 triều: Con nước, thủy triều. Vì “triều”
là đồng âm khác nghĩa nên dễ ngộ nhận là “triều đình”. Thực ra trong thư tịch
chữ Hán đã viết cù lao Tân Triều là 新潮, triều 潮 (có bộ thủy) chứ không phải là 朝 như Trịnh Hoài Đức chép trong Gia Định thành thông chí: “… năm Giáp Tý (1744), niên hiệu Cảnh Hưng thứ
4 vì có lũ lớn, bị xói lở chia làm 2, phía đông thành cù lao Ngô phía tây thành
cù lao Tân Triều, ở giữa có một sông nhỏ vừa cạn vừa hẹp chia ranh giới”
Như vậy, chính xác tên gọi Tân Triều chỉ hình thành sau năm 1744 do trận lũ lụt
chứ không phải là ra đời sau khi Nguyễn Ánh có mặt ở Tân Triều cùng với Bá Đa
Lộc. Danh xưng “tân triều (tân trào)” chỉ
triều đình, kinh đô mới của Nguyễn Ánh thực ra là ở Sài Gòn, thành Gia Định.
Năm 1788, Nguyễn Ánh đánh chiếm được Sài Gòn, xây dựng thành quách để chống lại
Tây Sơn.
Tóm lại,
địa danh cù lao Tân Triều không thể được hiểu là triều đình mới của Nguyễn Ánh
như một số tác giả đã hiểu lầm nhưng chỉ là tên gọi chỉ một cù lao mới được tạo
ra sau trận lụt lớn năm 1744 từ 1 cù lao ban đầu là cù lao Ngô.
5/ Suối Săng Máu (Suối Máu):
Suối Săng Máu còn gọi
là Xăng máu, Săn Máu, Sơn Máu, Suối Máu... lần đầu tiên được nhà nghiên cứu địa
chí Lương Văn Lựu giải thích như sau: “Sơn
Máu”: cây suông, cao, trên ngọn nhánh toả tàn dù, mọc theo gò, lá dài như là vú
sữa, mủ đỏ, màu máu, như mủ cây ngành ngạnh, loại cây tạm dùng làm guốc (...)
lớp tiền nhân trong giới lâm nghiệp, đã đặt tên con suối bắt nguồn từ Hố
Nai – Bình Ý, chảy ra sông Đồng Nai, là suối Sơn Máu, vì Suối này chảy ngang
qua các gò nỗng, cảnh rừng có nhiều cây Sơn thuộc loại có mủ màu đỏ là Sơn máu
(...) Vậy là tên “ Sơn Máu” rất hợp lý và có nghĩa, đúng với
địa danh của ngọn suối”[25] Nhưng xét sách
xưa, thấy trong Đại Nam quốc âm tự vị
của Huỳnh Tịnh Của (1895) đã từng ghi nhận: “Săng
máu: Các thứ cây tạp, cũng là củi thổi. săng đen, tây, bướm, đều nhỏ cây, ở đất
rừng; săng mã, máu đều lớn cây, hay mọc hai bên mé sông.”. Theo Việt Nam Từ Điển[26] của Lê văn Đức thì trong rừng nước ta có một loại gỗ
tạp, không to lắm, gọi là săng. Cây săng có nhiều loại: săng bướm, săng đen,
săng máu, săng mã, săng tây, săng trắng. Đa số các loại săng thường mọc ven bờ
sông, bờ suối. Vậy đúng là có tên cây “săng máu”. Còn tên gọi cây sơn máu thì không thấy sách nào nói đến.
Trong sách Cây cỏ Việt Nam[27] của Phạm Hoàng Hộ đã ghi nhận cây xăng máu. theo Nguyễn Sơn Thụy[28], thì cây Xăng máu: “Mọc
dọc theo sông rạch . Cây ưa ẩm, chịu đựng được nước ngập của thủy triều.."
Gỗ: Khi mới khai thác, nhựa tươm ra giống như máu. Do đó người ta gọi là Xăng
Máu... dùng làm guốc” Có lẽ cây sơn máu
mà Lương Văn Lựu nói là một cách đọc khác từ dân gian (săn máu = sơn máu) cũng
chính là cây săng máu (xăng máu, lẫn
lộn S = X) nhưng cứ theo sách xưa thì nên gọi đúng tên địa danh là suối Săng
Máu, nói tắt là Suối Máu chứ không như hiện nay ở Biên Hòa vẫn ghi tên là Săn
Máu (suối, cầu).
Biên Hòa ngày 14 tháng 11 năm 2013
(Đăng trên Tạp chí Xưa & Nay số 445/3 và 446/4 -2014 -)
[2] Lịch sử và Văn hóa
Cù Lao Phố, Nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai 2007
[3] Đỗ Quang
Chính, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt,
NXb An Tôn - Đuốc Sáng, Tôn Giáo 2008, dẫn theo sách Joannes Arnedo, de hís
quae in Regno Cochinchinensi contra Religionem Christianam acta sunt anno
reparatae salutis 1700. Huế, 31 – 7- 1700. Sách in
“Đơm nay”, không hiểu có đúng nguyên văn? Chúng tôi chưa tìm ra sách của
Joannes Arnedo để đối chiếu.
[4]
Trương Bá Cần, Lịch
sử phát triển Công giáo ở Việt Nam (t1) - Thời kỳ khai phá và hình thành từ khởi thủy cho đến tới thế kỷ XVIII, NXB Tôn Giáo Hà Nội 2008
[5] P.J. Pigneaux, Dictionarium Anamitico - Latinum,
(bản thảo viết tay) (1772-1773). Nguồn: bản pdf của NNT trong Diễn đàn VVH (viethoc.com)
[6] Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí. Lý Việt Dũng
(dịch và chú giải), Huỳnh Văn Tới (hiệu đính, giới thiệu). Nhà xuất bản Tổng
hợp Đồng Nai, 2008.
[7] Quốc
sử quán triều Nguyễn. Đại Nam
nhất thống chí. Nhà xuất bản Thuận Hóa. Huế, 1992
[8] Huỳnh
Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc âm tự vị, Tom I-II Sài Gòn 1895-1896, Nhà xuất
bản Trẻ, tái bản 1998.
[9] J.F.M
Génibrel, Dictionnaire Annamite – Français, Deuxième édition, Tân Định, Saigon
1898, nguồn sách phổ biến từ books.google.com
[10] Hội
Khai Trí Tiến Đức, Việt Nam
tự điển, Hà Nội, 1931, Mặc Lâm tái bản, 1968
[11] Lê
quang Định. Hoàng Việt nhất thống dư địa chí
, Phan Đăng (dịch chú), Nhà xuất bản Thuận Hoá.Trung tâm văn hoá ngôn
ngữ Đông Tây. 2002. (Nguyên bản chữ Hán in kèm theo phần phụ lục của sách)
[12]
Đông Phố, theo chúng tôi có thể là tên chữ Hán của Oudong (Long Úc, Vũng Long),
kinh đô mới của Cao Miên do vua Chey Chetta II sau khi lên ngôi và dời đô, Đông
nói tắt từ vần cuối “dong” còn Phố nghĩa
là bến sông.
[13] Trịnh
Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định, Gia
Định tam gia, Hoài Anh (dịch) , Nhà xuất
bản Đồng Nai . 2003
[14] Phạm
Hoàng Quân, Những ghi chép về vùng biển
Quảng Đông (Trung Hoa) và Biển Đông (Việt Nam)
trong Đại Thanh Thực Lục đối chiếu với Đại Nam Thực Lục , dẫn theo nguồn :
http://www.seasfoundation.org/research-documents/geopolitics/891-nhng-ghi-chep-v-vung-bin-qung-ong-trung-hoa-va-bin-ong-vit-nam-trong-i-thanh-thc-lc-i-chiu-vi-i-nam-thc-lc
[15] Sơn Nam,
Cù lao Phố - Cảng biển đầu tiên ở Nam Bộ - Nam Bộ xưa và nay (nhiều tác giả), NXB Tp
Hồ Chí Minh & Tạp chí Xưa và Nay, 1999
[17]Nguồn:http://www.lachong.edu.vn/175/6423/Dia-danh-Dong-Nai-mang-ten-dong-vat-va-thuc-vat.html
[18]
Cù lao Phố còn có tên là cù lao Ăn Mày, theo Huỳnh Ngọc Trảng (sách đã dẫn): cho cù lao Ăn Mày là tục danh
của Đại Phố châu, cù lao Phố theo Vương Hồng Sển cù lao Ăn Mày được Trương Vĩnh
Ký dịch sát nghĩa 2 tiếng Miên Kờme Kòh sòm tãn. Không xác định được tên gọi
này là gốc Miên hay Việt, theo chúng tôi, có lẽ nguyên do là khi cù Lao Phố bị
Lý Văn Quang đánh chiếm sau đó nhà Nguyễn giành lại được, ít nhiều
cũng bị tàn phá rồi đến các cuộc chiến
liên miên giữa Tây Sơn và Chúa Nguyễn, Nguyễn Ánh ở cù Lao Phố đã gây nhà tan cửa nát, dân chúng
phiêu bạt. Người Hoa đã di cư đến Sài Gòn để lập ra Chợ Lớn. Trong
cảnh chiến tranh tàn phá tang thương đó, chắc chắn xuất hiện nhiều người
ăn mày ở cù lao Phố và có thể tên gọi “Ăn Mày” đã được dân gian ví von, mộc mạc để gọi tên “ cù lao
Ăn Mày” ?
[19] Alexandro
de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et Latinvm, bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt,
Đỗ Quang Chính, Nxb Khoa học Xã hội, 1991
[20] Đông phố 東浦 có sách viết là Giản phố柬浦, thực ra chữ Hán 東 đông và giản 柬 rất giống nhau nên dễ
lầm. Đông phố mới đúng.
[21] Nguyễn
Thông, Việt Sử Thông Giám Cương Mục Khảo
Lược, Đỗ Mộng Khương (dịch), Nxb Văn hóa Thông tin 2009
[22] Nguồn: http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/ba-111a-loc/
[23]
Trương Bá Cần, Lịch
sử phát triển Công giáo ở Việt Nam (t1) - Thời kỳ khai phá và hình thành từ khởi thủy cho đến tới thế kỷ XVIII, NXB Tôn Giáo Hà Nội 2008
[24] Trương
Bá Cần (sđd) trích từ sách của LAUNAY, Histoire génerale de la Société
des missions-étrangères (1894)
[25] Lương
Văn Lựu. Biên Hòa sử lược toàn biên. Tập 1,2 . Tác giả xuất bản (1972-1973)
[26] Lê văn Đức , Việt Nam Từ
Điển" , Khai Trí xuất bản, 1970
[27] Phạm Hoàng Hộ, Cây Cỏ Việt Nam, Quyển 1, Nhà xuất bản Trẻ, Tp
HCM (1999)
[28] Nguyễn Sơn Thụy - Chi cục
Phát triển lâm nghiệp, Cây Xăng Máu: Một trong những cây có giá trị
nhưng bị bỏ quên, nguồn: http://www.sonongnghiep.hochiminhcity.gov.vn/tintuc/Lists/Posts/Post.aspx?List=f73cebc3-9669-400e-b5fd-9e63a89949f0&ID=1764
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét