Biểu tượng khởi thủy của Địa Chi Mão
là tên gọi con thỏ hay tên gọi con mèo?
Đinh
văn Tuấn
Theo Âm lịch vào những năm thuộc Địa Chi Mão
卯 (như năm nay đang là cuối năm
Tân Mão), người ta thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng ở các nước
Á Đông có 2 hình tượng khác nhau hiện diện để tượng trưng cho năm Mão: Theo
truyền thống, ở Trung Quốc, Đài Loan,… đã
lấy hình tượng con THỎ兔(thố) để làm biểu tượng cho năm
Mão nhưng đặc biệt ở Việt Nam, lại là biểu tượng con MÈO, người Việt thường nói
năm, tuổi mẹo hay mèo. Trong 12 con giáp của Trung Quốc và
Việt Nam,
chỉ có con giáp thứ 4 là thật sự khác nhau. Sự khác biệt duy nhất này đã trở
thành một đề tài cho một số nhà nghiên cứu Việt Nam tìm hiểu và lý giải, trong
đó có một giả thuyết hấp dẫn như muốn khẳng định hình tượng và tên gọi con MÈO của Việt Nam mới chính là khởi thủy của
Chi MÃO và người Trung Quốc đã tiếp nhận nhưng lại cố ý thay con THỎ vào chỗ của
con MÈO[1], [5]
Nhưng sự thật có phải như thế không? Bài
viết này là một cố gắng tìm hiểu và khảo chứng lại, dựa vào các bằng chứng xác thực từ thư tịch, khảo cổ… để thử
tìm giải đáp cho câu hỏi: Biểu tượng của Chi Mão, lúc ban đầu là hình tượng và tên gọi con thỏ Trung Quốc hay hình tượng và tên gọi con mèo Việt Nam?
1. Chi MÃO và biểu tượng con THỎ qua thư tịch, khảo cổ ở Trung Quốc:
Mão 卯là Chi thứ 4 trong 12 Địa Chi (Thập nhị Chi)
như Tý, Sửu, Dần, Mão… trong lịch pháp Trung Quốc thời cổ, 12 Địa Chi phối hợp
với 10 Thiên Can (Thập Can) như Giáp, Ất, Bính, Đinh…để ghi nhớ, tính toán thời
gian. Lịch pháp Trung Quốc với hệ thống Thập Can Thập nhị Chi đã xuất hiện sớm
nhất từ thời nhà Thương (1766–1122
TCN) với bằng chứng khảo cổ qua Giáp cốt văn. Sau đây là chữ卯 từ Giáp cốt văn[2]:
“ngày Tân Mão hỏi quỷ thần (bói): ngày hôm nay, ngày Tân, cũng mưa hay không mưa?”.
Con thỏ và hình tượng của
nó như “ngọc thố”, “nguyệt thố” từ xa
xưa rất thân thuộc trong truyền thuyết và văn học Trung Quốc. Ngược lại người ta không tìm thấy chữ貓miêu (mèo) trong Giáp cốt văn, Kim văn mà chỉ thấy có ở
thư tịch Tiên Tần như Lễ Ký, Kinh Thi,
sau đó được ghi nhận trong Thuyết văn giải
tự của Hứa Thận đời Đông Hán. Hình tượng con mèo trái lại, không được thân thiết như hình tượng con thỏ trong đời sống và tâm lý
Trung Hoa. Điều này cũng góp phần giải thích lý do tại sao người Trung Hoa lại
chọn THỎ chứ không phải là MÈO để làm biểu tượng cho Chi MÃO.
Như vậy, qua thư tịch và khảo
cổ ở Trung Quốc cho đến nay ta có thể xác định Thập nhị Chi xuất hiện phổ biến từ
thời Thương và biểu tượng 12 con vật của 12 Địa Chi đã xuất hiện sớm nhất vào khoảng
thời Tiên Tần. Địa Chi thứ tư là MÃO 卯
luôn gắn liền với biểu tượng của nó từ khi sinh ra là hình tượng và tên gọi con
THỎ 兔 (tù) thố
2. Chi MÃO và biểu tượng con MÈO qua thư tịch, khảo cổ ở Việt Nam:
Thư tịch cổ Việt Nam chỉ còn các tài
liệu truyền bản từ đời Trần trở về sau, theo (Đại)Việt sử lược (khuyết danh)[7]
thì thời Trang Vương nhà Chu, nước Văn Lang của Hùng Vương chưa có chữ viết, chỉ
biết dùng cách thắt nút để ghi nhớ chính sự, không nói gì về lịch pháp Can Chi,
hay 12 con giáp cho đến khi nước Văn Lang biến mất để nhường chỗ cho nước Âu Lạc
của An Dương Vương cai trị rồi sau bị Triệu Đà nước Nam Việt thôn tính thì lịch
sử cổ đại VN đã sang trang mới. Bắt đầu từ đây, sau khi Nam Việt bị nhà Hán
tiêu diệt, nước ta đã nội thuộc Trung Hoa và chịu ảnh hưởng văn hóa Hán sâu đậm,
dĩ nhiên trong đó có hệ thống lịch pháp Trung Hoa cùng với biểu tượng của
nó là 12 Sinh Tiếu (con Giáp).
Ở Việt Nam thời cổ, dấu vết xưa nhất về
12 con Giáp đã từng được chép lại ở các truyền bản đời Trần, trước tiên là bộ (Đại)Việt sử lược (khuyết danh)[7], ở quyển thứ hai, chép về vua Lý Thái Tổ đã
viết: “Xưa có con chó chùa Ứng Thiên, hương Cổ Pháp đẻ 1 con chó trắng, trên
lưng có lông đen thành chữ “Thiên Tử”. Đến nay thấy vua đẻ năm Giáp Tuất”, ở
đây con Giáp thứ 11 (Chi) Tuất chính là con chó,
tiếp đến là sách Thiền uyển tập anh, ở
quyển Hạ, Thiền phái Tì Ni Đa lưu Chi, Trưởng lão La Quý An, có ghi chép một
câu kệ kiểu “sấm vĩ” do Trưởng lão viết ra và được loan truyền trong dân gian như
sau: “Thố kê thử nguyệt nội兔 雞 鼠 月 內:
Thỏ gà trong tháng chuột” (Thỏ gà chuột:
ngày thỏ, tháng chuột, năm gà) [3], hiển nhiên, con Giáp thứ tư, Chi MÃO
chính là con THỎ chứ không phải là con MÈO, câu thơ trên chắc hẳn được làm ra trước thời Lý, vì đã tiên đoán về chuyện
Lý Công Uẩn sẽ làm vua vào năm Kỷ Dậu (con gà) là năm 1009. Đây có lẽ là các bằng chứng sớm nhất về
12 con giáp nói chung và nói riêng là con Giáp thứ tư THỎ đã xuất hiện ở Việt
Nam vào thế kỷ X. Vậy thì rõ ràng ngay từ thế kỷ X, ở VN vẫn dùng chung một biểu
tượng THỎ cho Địa Chi thứ tư như truyền thống Trung Quốc. Sau này đến tận thế kỷ
XVIII Học giả Lê Quý Đôn (1726 - 1784) trong sách Vân Đài Loại ngữ, quyển 2, Tượng Hình [6]cũng
đã theo thư tịch Trung Hoa để luận giải tường tận về 12 con giáp (âm dương, ngũ
hành, số móng) trong đó cũng ghi nhận Chi MÃO thuộc THỎ
Tên gọi MÈO tượng trưng
cho Chi MÃO có lẽ thấy sớm nhất ở trong Sấm
ký Trạng Trình[7]
tương truyền là của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585)
ở câu: “Mèo non chi chí tìm về cố hương” (mèo non có thể là đầu năm Mão)
nhưng theo các nhà nghiên cứu Hán Nôm, truyền bản này có lẽ do người đời sau
tái lập nên khó có thể là một chứng cứ giá trị. Chi MÃO được gọi tên là mẹo
hay mèo lần đầu tiên được ghi chép
vào thế kỷ XVII ở trong tự điển Việt - Bồ - La (1651) [1] của Alexandre de Rhodes, soạn
giả đã ghi nhận Mão là Mẹo
và giờ Mẹo ứng với con mèo, thế thì xét về niên đại có
thể đoán định con Giáp thứ tư mang hình tượng con MÈO là một biến thể từ nguyên
gốc là con THỎ chứ không phải là ngược lại, chuyện chuyển đổi con THỎ thành con
MÈO là chuyện sinh sau đẻ muộn có lẽ do hoàn cảnh địa lý, sinh vật và sinh hoạt
tâm lý của người Việt, vì loài mèo bắt chuột có ích cho nhà nông, được làm vật
nuôi trong nhà, gắn bó thân thiết với con người hơn là con thỏ và có thể từ
cách đọc khác của Chi卯là mão/mẹo càng dễ liên tưởng đến
tên gọi mèo nên người Việt đã thay tên gọi THỐ (thỏ) Trung Hoa bằng tên
gọi MÈO, mặt khác đây cũng là một trong những cách thể hiện tinh thần đối kháng
Trung Hoa nhất là trong bối cảnh nhà Hậu Lê (1428 - 1788) phục
hưng toàn diện văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt, là thời của các tác phẩm
văn học quốc âm, chữ Nôm phát triển cực thịnh.
Về phương diện khảo cổ học, thật đáng tiếc là cho đến nay
chưa có một công trình khoa học nào chứng minh thành công, thuyết phục là dân tộc
Việt Nam
thời thượng cổ (hay ngang với thời nhà Thương của Trung Hoa) đã có chữ viết. Không có chữ viết, tư duy con người không thể phát triển và làm phát sinh,
phát triển các lĩnh vực tinh thần như lịch pháp, thiên văn, triết học…nên dĩ
nhiên chúng ta không thể khẳng định trước nhà Thương, hệ lịch pháp với Thập Can
thập nhị Chi cùng với 12 con vật làm biểu tượng nói chung và nói riêng là Địa
Chi thứ tư là MÃO với hình tượng con MÈO đã từng xuất hiện tại vùng châu thổ
sông Hồng, nơi phát tích của văn minh Đông Sơn. Trên các di vật văn hóa Đông
Sơn không hề thấy hình tượng, họa tiết 12 con giáp ứng với 12 Địa Chi. Ngay cả
các dấu vết hóa thạch của loài mèo thuần dưỡng hoặc các họa tiết về hình ảnh
con mèo cũng chưa từng được phát hiện ra trong các di chỉ khảo cổ từ Văn hóa Hòa
Bình, Phùng Nguyên, Đồng Đậu đến Đông
Sơn…Vào thời thuộc Hán, ở Giao Chỉ, Giao Châu cũng không phát hiện được các bằng
chứng xác thật từ thư tịch lẫn khảo cổ về hình tượng 12 con Giáp làm biểu tượng
cho 12 Địa Chi.
Trong bài viết Năm Mão
và con Mèo qua thơ văn [5], Gs Nguyễn Quảng Tuân đã dùng văn tự cổ đời Xuân
– Thu (770-476 trước CN) như chữ 兔
(thố) lại viết giống chữ 免 (miễn)
để làm bằng chứng cho kiến giải của mình như sau: “Theo cuốn Ngữ lâm thú thoại
cho nên chữ miễn, một dạng cổ của mãn trong tiếng Việt cổ
đã có nghĩa là con mèo. Nghĩa này được ghi trong tự điển Việt -
Hoa - Pháp của Gustave Hue - 1937 (Mãn: Chat: con mèo. Con mãn tam thể:
chat à trois couleurs) và trong Tự điển Việt Nam của Khai trí Tiến đức -
1931 (Mãn: Con mèo)” Thật ra luận chứng trên không đủ thuyết phục vì trong tiếng Việt tiếng gọi “mãn” chỉ loài mèo là một tiếng xuất hiện khá
muộn. Trước giai đoạn
(1931 - 1937) mà Việt Nam tự điển và Việt - Hoa - Pháp ghi nhận tiếng “mãn” lại không hề có trong các tài liệu chữ Nôm và Quốc ngữ còn lưu lại từ đời
Trần đến Nguyễn kể cả trong tục ngữ, ca dao xưa hay các phương ngữ. Trong sách
Giúp đọc Nôm và Hán Việt [8], Lm Trần Văn Kiệm cũng ghi nhận mèo
Nôm còn gọi là “Con Mãn” với chú giải: “Có câu vè: Con mèo mày trèo
cây cau, Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà, Chú chuột đi chợ đường xa, Mua mắm
mua muối giỗ cha con mèo được bình dân cho rằng đã xuất hiện từ khi Tây Sơn
rút quân rời Thăng long xuống đèo Tam điệp chờ đợi vua Quang Trung ra Bắc đại
phá quân Mãn Thanh”. Hiểu như thế thì tên gọi khác của con mèo là “mãn” phát sinh
từ tiếng gọi tắt của Mãn Thanh vào thời
Tây Sơn. Lấy một từ cận đại để lý
giải một từ cổ đại là một nghịch lý, thiếu
khoa học. Do đó luận điểm của Gs Nguyễn Quảng Tuân khi khẳng định: chữ miễn,
một dạng cổ của mãn trong tiếng Việt cổ đã có nghĩa là con
mèo.” và “Chính vì tiếng Việt còn duy trì con mèo cho chi mão/
mẹo mà ta có thể lập luận rằng nguồn gốc tên 12 con giáp chính là từ tiếng
Việt cổ nhất vào thời Tiên Tần.” sẽ khó lòng đứng vững.
Tóm lại, dấu vết sớm nhất về
hình tượng và tên gọi MÈO làm biểu tượng
cho Chi MÃO ở VN chỉ vào khoảng cuối thời Hậu Lê nhưng thực ra trước đó từ thế
kỷ X, trong dân gian đã loan truyền tên gọi THỎ và hình tượng của nó mới thực
là biểu tượng ban đầu của Địa Chi MÃO.
3. Lời Kết
Qua các bằng chứng xác thật về thư tịch,
khảo cổ, ngôn ngữ thì ở Trung Quốc và Việt Nam, cho đến hiện nay ta có thể xác
định 12 Địa Chi đã phổ biến từ thời Thương và sau đó vào khoảng thời Tiên Tần, 12
con vật làm biểu tượng của 12 Địa Chi mới thấy xuất hiện, trong đó Chi thứ tư
là MÃO 卯 đã có hình tượng là
con THỎ, chữ Hán là兔 (tù) thố
. Từ khi nội thuộc nhà Hán cho đến khi Việt Nam dành độc lập bắt đầu từ nhà
Đinh đến Lý, ở VN đã chịu ảnh hưởng và dùng tên gọi, hình ảnh con THỎ để tượng
trưng cho Chi MÃO như truyền thống của Trung Quốc nhưng mãi cho đến thế kỷ XVI-XVII,
Chi MÃO mới bắt đầu được chuyển đổi từ hình tượng con THỎ sang hình tượng và
tên gọi MÈO vì nhu cầu nội tại của đời sống sinh hoạt và tinh thần, tâm lý của
người Việt. Hiển nhiên, dù muốn hay không, kết luận đã nghiêng về Trung Quốc:
Khởi thủy của biểu tượng Chi Mão chính là hình tượng và tên gọi con THỎ Trung Quốc chứ
không phải là hình tượng và tên gọi con MÈO Việt Nam. Sự thật khách quan này cũng
chính là một chứng cứ khoa học dùng để phê bình và phủ nhận giả thuyết thiếu
khoa học, nặng tinh thần “tự tôn dân tộc” khi đưa ra lập luận: Khởi đầu tên gọi
của 12 Địa Chi chính là tên gọi của 12 con giáp
của VN và nói riêng về biểu tượng con MÈO là hình ảnh và tên gọi ban đầu
của Chi MÃO.
Biên Hòa,
ngày 22 tháng 7 năm 2011
Tài liệu tham khảo
1.
Alexandro de Rhodes (1651), Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm et Latinvm, bản dịch tiếng Việt của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ
Quang Chính, Nxb Khoa học Xã hội, 1991.
2.
Gia Bảo, Ngọc Duyên, Họa
Tiết Trang Trí Đồ Đồng Xanh - Các Dân Tộc Thiểu Số Trung Hoa, NXB Mỹ thuật 2006
3.
Ngô Đức Thọ – Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú thích) Thiền uyển tập anh, Phân viện Nghiên cứu
Phật học, NXB Văn Học, Hà Nội –1990
4.
Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch, Đạo của người quân tử, Nxb Văn Hoá, Hà Nội, 1994
5.
Nguyễn Quảng Tuân, Năm Mão và con Mèo
qua thơ văn, Tạp Chí Hồn Việt Xuân Tân Mão số 43, 12/1/2011
6.
Tạ Quang Phát (dịch ),
Vân Đài Loại ngữ tập I, , NXB Văn Hóa Thông Tin, 1995
7.
Trần Quốc Vượng (dịch), Việt sử lưọc, NXB Thuận
Hóa- Trung Tâm Văn Hóa Đông Tây . 2005
8.
Trần Văn Kiệm, Giúp đọc Nôm và Hán Việt, Nxb
Đà Nẵng & Hội Bảo tồn Di Sản Chữ Nôm Hoa Kỳ, 2004
9.
饒宗頤-會 憲 通(著),雲夢秦简日書研究,中文大學出版社,香港,1982
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét