Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2015

Thơ Nguyễn Du 阮攸 - Đinh Văn Tuấn (chuyển dịch Lục bát)



1
對酒
趺坐閒窗醉眼開,
落花無數下蒼苔。
生前不盡樽中酒,
死後誰澆墓上杯。
春色漸遷黄鳥去,
年光暗逐白頭來。
百期但得終朝醉,
世事浮雲眞可哀。
(Ngồi xếp bằng tròn cạnh cửa sổ, say, mắt lim dim,
Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh.
Lúc sống không uống cạn hồ rượu,
Chết rồi, ai rưới rượu trên mồ cho ?
Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi,
Năm tháng ngầm thôi thúc đầu bạc.
Cuộc đời trăm năm, chỉ mong được say suốt ngày.
Thế sự như mây nổi, thật đáng buồn.)

Dịch thơ
Uống rượu

Mắt say hé mở song nhàn
Muôn hoa rụng xuống ngập tràn rêu xanh
Sao không cạn chén bình sinh
Mai sau giọt rượu vắng tanh bên mồ
Cánh vàng khuất bóng bồi hồi
Nghe chừng xuân sắc tàn vơi bao giờ
Năm lụi tàn, tóc bạc phơ
Trăm năm say khướt vô bờ khát khao
Đời như mây nổi lao đao
Chạnh lòng u uẩn nghẹn ngào bi ai

2
撥悶
十載塵埃暗玉除
百年城府半荒墟
么麼蟲鳥高飛盡
滓濊乾坤血戰餘
桑梓兵前千里淚
親朋燈下數行書
魚龍冷落閒秋夜
百種幽懷未一攄

(Cát bụi che mờ thềm ngọc đã mười năm.
Thành phủ xây dựng trăm năm nay, một nửa đã thành gò hoang,
Những loài chim, sâu nhỏ bé đều bay hết cả.
Sau cuộc huyết chiến, chỉ còn lại cõi càn khôn nhơ nhớp.
Quê nhà trong cơn binh lửa, mình ở xa ngàn dặm, nước mắt tuôn rơi,
Ở xa muôn dặm nghĩ đến mà rơi nước mắt.
Bạn bè, bà con chỉ còn lại mấy hàng thư dưới đèn.
Đêm thu vắng, cá rồng lặng lẽ,
Trăm mối u hoài chưa dẹp được.)

Dịch thơ
Xua đi sầu muộn

Mười năm thềm ngọc bụi mờ
Trăm năm hoang phế thành xưa ngậm ngùi
Cánh chim vô tích chơi vơi
Trời ô đất uế máu rơi tương tàn
Quê hương binh lửa ngút ngàn
Tấc lòng nghìn dặm lệ tràn bi thương
Còn đây bằng hữu dặm trường
Dưới đèn soi tỏ mấy hàng thư phai
Đêm thu thanh vắng buông lơi
Ngư long mộng mị ngủ vùi tịch liêu
Xiết bao sầu muộn đìu hiu
Mà nay chưa thỏa một điều khôn nguôi

3
漫興
龍尾洲邊多白鷗,
藍江堂上有寒儒。
一生詞賦知無益,
滿架琴書徒自愚。
百歲為人悲瞬息,
暮年行樂惜須臾。
寧知異日西陵下,
能飲重陽一滴無

(Bên bãi Long Vĩ có nhiều chim âu trắng,
Trong ngôi nhà bên sông Lam có nhà nho nghèo.
Một đời chuyên về từ phú, biết là vô ích,
Sách đàn đầy giá, chỉ mình làm ngu mình.
Cuộc đời trăm năm, buồn thay, chỉ là chốc lát,
Tuổi già mới mua vui, tiếc quá ngắn ngủi.
Biết rồi đây, khi nằm xuống dười gò phía tây,
Tiết Trùng dương (1) đến, liệu có uống được một giọt rượu nào không?)

Chú thích:
(1) Trùng dương: tức trùng cửu, ngày 9 tháng 9 Âm lịch. Thời trước , các nhà thơ vào tiết này  thường uống rượu , ngắm hoa cúc tìm hứng thơ


Dịch thơ:
Cảm hứng lan man

Từng đàn cò trắng phau phau
Bên bờ Long Vĩ hẹn nhau sum vầy
Sông Lam vẫn chảy nơi đây
Nhà tranh một mái, chốn này, hàn Nho
Một đời từ phú mộng mơ
Biết là vô ích mơ hồ đấy thôi
Cầm thư chồng chất bùi ngùi
Chỉ là tự chuốc một đời ngu ngơ
Trăm năm trong cõi người ta
Buồn sao một thoáng chỉ là phù du
Mà nay tóc bạc, ô hô!
Đắm mình hưởng lạc nào ngờ chóng qua
Rồi mai dưới mộ xế tà
Chén Trùng Dương cạn chỉ là giọt không!

4
雜詩其二
鴻山一色臨平渠,
清寂可為寒士居。
千里白雲生幾 席,
一窗明月上琴書。
笑啼殉俗干戈際,
緘默藏生老病餘。
葉落花開眼前事,
四時心鏡自如如。

(Núi Hồng một màu soi bóng xuống làn nước phẳng,
Nơi thanh tú tĩch mịch này, kẻ hàn sĩ có thể ở được
Mây trắng từ nghìn dặm bay đến, bay trên giường chiếu,
Trăng sáng soi qua cửa sổ, chiếu vào cặp sách túi đàn.
Lúc loạn lạc, cười khóc cũng phải theo đời,
Thân già yếu nên yên lặng để giữ mình.
Chuyện trước mắt thay đổi như hoa nở lá rụng,
Quanh năm, cõi lòng vẫn thản nhiên như không.)

Dịch thơ:
Tạp thi (II)

Núi Hồng soi bóng mơ màng
Sông trôi lờ lững nhẹ nhàng viễn du
Chọn nơi thanh vắng thâm u
Một chàng hàn sĩ nhàn cư thỏa lòng
Xa xôi ngàn dặm mênh mông
Bên giường mây trắng bềnh bồng nhẹ trôi
Cầm thư lấp lánh chơi vơi
Qua khung cửa hẹp trăng soi ngập tràn
Khóc cười, tục lụy cầu an
Binh đao loạn thế tương tàn thời nay
Im hơi lặng tiếng bao ngày
Thân tàn lắm bệnh loay hoay sống còn
Nhìn xem lá rụng héo hon
Này đây hoa nở mê hồn đấy thôi
Bốn mùa biến đổi không thôi
Tâm hồn sáng láng tinh khôi nguyên tuyền

5
漫興 其二
行腳無根任轉蓬,
江南江北一囊空。
百年窮死文章裏,
六尺浮生天地中。
萬里黃冠將暮景,
一頭白髮散西風。
無窮今古傷心處,
依舊青山夕照紅。

(Chân không bén rễ, mặc cho chuyển dời như ngọn cỏ bồng.
Một chiếc túi rỗng không, đi hết phía nam sông, lại phía bắc sông.
Cuộc đời trăm năm, chết xác với văn chương.
Tấm thân sáu thước, lênh đênh trong vòng trời đất.
Muôn dặm mũ vàng, cảnh đã xế chiều.
Đầu tóc bạc phơ, gió tây thổi tung.
Nơi gợi bao nhiêu chuyện kim cổ hết sức đau lòng.
Ấy là dãy núi xanh vẫn nhuốm bóng chiều hồng như cũ.)

Dịch thơ:
Cảm hứng lan man (II)

Chân không bén rễ vật vờ
Cỏ bồng phiêu lãng phất phơ mặc lòng
Trên vai nhẹ nhõm túi không
Giang Nam, giang Bắc xuôi dòng lang thang
Trăm năm hệ lụy văn chương
Khốn cùng chết rũ tỏ tường từ nay
Tấm thân hèn mọn lắt lay
Lênh đênh trời đất đọa đày mãi thôi
Mũ vàng muôn dặm xa xôi
Bóng chiều đã ngả bồi hồi dưới chân
Gió Tây hiu hắt xoay vần
Bạc phơ mái tóc, bất thần thổi tung
Núi xanh vẫn nhuộm ánh hồng
Trăm năm thế sự đau lòng cổ kim

6
蝶死書中
芸窗曾幾染書香
謝卻風流未是狂
薄命有緣留簡籍
殘魂無淚哭文章
蠹魚易醒繁花夢
螢火難灰錦繡腸
聞道也應甘一死
淫書猶勝爲花忙

(Thư phòng bao lâu nhiễm hương thơm của sách,
Từ bỏ vị phong lưu chưa hẳn là dại.
Mệnh bạc, có duyên lưu lại với sách vở,
Hồn tàn không nước mắt khóc văn chương.
Con mọt sách dễ làm tỉnh mộng phồn hoa,
Lửa đom đóm khó đốt cháy được tấm lòng gấm vóc.
Được nghe đạo lý rồi chết cũng cam,
Ham mê sách còn hơn mải miết vì hoa.)

Dịch thơ:
Bướm chết trong sách

Song vân thoang thoảng thư hương
Phải đâu cuồng dại dứt đường phong lưu
Còn đây duyên nợ dạt dào
Lưu truyền sách vở mệnh nào bạc đâu
Hồn tan không giọt lệ sầu
Khóc than chi để nghẹn ngào văn chương
Phồn hoa mọt sách mơ màng
Mà nay thức tỉnh nhẹ nhàng như không
Dễ đâu lửa đóm dám mong
Mà thiêu tàn cháy gấm lòng thêu hoa
Lắng nghe đạo lý thỏa thuê
Cam lòng nguyện chết trở về hư không
Mê hoa lụy sắc thỏa lòng
Sao bằng đắm sách mơ mòng cố nhân

7
秋至
阮攸
香江一片月
今古許多愁
往事悲青塚
新秋到白頭
有形徒役役
無病故拘拘
回首藍江浦
閒心謝白鷗

(Một mảnh trăng trên Sông Hương
Gợi bao mối sầu kim cổ
Chuyện cũ chạnh thương mồ cỏ xanh
Thu mới đến trên làn tóc bạc
Có thân luống vất vả
Không bệnh mà lưng cứ khom khom
Ngoảnh đầu về bến sông Lam
Bụng muốn  nhàn mà phải phụ với chim âu trắng)

Dịch thơ
Chớm thu

Sông Hương vằng vặc trăng khuya
Xiết bao sầu muộn đầm đìa cổ kim
Nấm mồ xanh cỏ nhói tim
Bi thương tràn ngập âm thầm chuyện xưa
Chớm thu nhuộm tóc bạc phơ
Hình hài khổ lụy bơ phờ mãi thôi
Lưng khom đành chịu với đời
Thân vô bệnh tật ngậm ngùi với ai
Sông Lam ngoảnh lại xa vời
Hồn nhàn, cò trắng xa rời từ nay

8
春夜
黑夜韶光何處尋
小窗開處柳陰陰
江湖病到經時久
風雨春隨一夜深
羈旅多年燈下淚
家鄉千里月中心
南臺村外龍江水
一片寒聲送古今

(Đêm tối đen, tìm đâu thấy cảnh xuân tươi sáng?
Cho cửa sổ nhỏ mở, chỉ thấy bóng liễu âm u.
Bệnh đến trong bước giang hồ đã lâu ngày,
Vẻ Xuân cũng theo mưa gió mà chìm trong đêm khuya
Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới bóng đèn những rơi lệ.
Quê nhà xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng.
(Ở đó) bên dòng Long giang (1), ngoài thôn Nam Đài
Tiếng sóng lạnh tiễn đưa kim cổ.)

Chú thích:
(1) Long giang: chỉ sông Lam. Sông Lam tên là Thanh Long giang

Dịch thơ:
Đêm Xuân

Đêm khuya tăm tối mênh mông
Tìm đâu chút ánh xuân hồng phôi pha
Bên song cửa nhỏ mở ra
Hàng hàng liễu rủ lòa xòa thâm u
Lênh đênh phiêu bạt giang hồ
Một thân nhuốm bệnh bơ phờ đã lâu
Gió mưa xuân hẹn đêm sâu
Dưới đèn nhỏ lệ mấy thu xa nhà
Cố hương nghìn dặm cõi xa
Nhớ nhung sầu muộn chan hòa ánh trăng
Nam Đài lai láng Long giang
Tống đưa kim cổ tiếng vang lạnh lùng

9
留別阮大郎
西風歸袖柳高林
傾盡離杯話夜深
亂世男兒羞對劍
他鄉朋友重分襟
高山流水無人識
海角天涯何處尋
留取江南一片月
夜來常照兩人心

(Tựa như) gió tây cuốn cả rừng liễu cao vào tay áo.(2)
Uống cạn chén rượu biệt ly, nói chuyện cho tới đêm khuya.
Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn.
Ở đất khách, cùng bạn chia tay càng thấy bùi ngùi.
Khúc đàn cao sơn lưu thuỷ(3), ai người hiểu?
Góc bể chân trời, biết tìm anh nơi đâu ?

Còn đó mảnh trăng ở phía nam sông
Đêm đến thường soi chung tấm lòng hai ta.)

Chú thích:
(1) Nguyễn đại lang: ông bạn họ Nguyễn, chưa rõ là ai
(2) Theo cụ Lê Thước, Trương Chính thì bản cái viết 歸袖柳 quy tụ liễu, nhưng xét ra không thành cú pháp nên nghi là 蕭颯拂 tiêu táp phất và dịch nghĩa là: Gió tây hiu hắt thổi qua rừng cây cao (Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn Học. 1978). Nhưng theo thiển ý người dịch (ĐVT), dựa vào “quy tụ liễu” cũng thấy có nghĩa và  đã dịch thành: (Tựa như) gió tây cuốn cả rừng liễu cao vào tay áo - Liễu: Chỉ sự chia tay. Ngày xưa, ở Trường An, bên sông Bá, người ta đưa tiễn bạn thường bẻ tặng một cành liễu.
(3) Cao sơn lưu thủy: núi cao, nước chảy. Sách Liệt tử chép chuyện hai người tri âm, Du Bá Nha và Chung Tử Kỳ, có nói: “Tử Kỳ nghe đàn rất sành. Khi Bá Nha gảy đàn, nghĩ đến núi cao hay nghĩ đến dòng nước chảy,  Tử Kỳ  đều biết cả”. Về sau Tử Kỳ chết,  Bá Nha đập đàn không gảy nữa, cho rằng trong đời không còn ai biết nghe tiếng đàn của mình.

Dịch thơ
Lưu biệt Nguyễn Đại Lang

Gửi vào tay áo bồn chồn
Gió Tây gom rặng liễu buồn trên cao
Một hơi cạn chén nghẹn ngào
Suốt đêm trò chuyện biết bao tâm tình
Đương thời loạn thế điêu linh
Nam nhi trước kiếm thẹn mình bấy lâu
Tha hương bằng hữu trước sau
Vẫn hằng trân trọng nỗi sầu biệt ly
Cao sơn lưu thủy còn kia
Nào ai thấu hiểu sẻ chia tiếng lòng
Chân trời góc bể mênh mông
Biết đâu nơi chốn mà mong tìm về
Giang Nam nguyện giữ trăng thề
Chung lòng đêm mộng trăng về chiếu soi

10
讀小青記
西湖花苑盡成墟,
獨吊窗前一紙書。
脂粉有神憐死後,
文章無命累焚餘。
古今恨事天難問,
風韻奇冤我自居。
不知三百餘年後,
天下何人泣素如。

(Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi,
Chỉ viếng nàng qua một tập sách (2) đọc trước cửa sổ.
Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở
Những mối hận cổ kim, khó mà hỏi trời được.
Ta tự coi như người cùng một hội, với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã
Không biết hơn ba trăm năm sau,
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)

Chú thích:
(1) Tiểu Thanh: một người con gái có tài , có sắc, sống vào đầu đời Minh. Nàng họ Phùng lấy lẽ một người cũng tên là  Phùng , vì tránh tên chồng nên gọi là Tiểu Thanh. Vợ cả ghen bắt ở một ngôi nhà trên núi Cô sơn, cạnh Tây Hồ, chẳng bao lâu buồn mà chết. Lúc bấy giờ mới mười tám tuổi. Nay ở Cô Sơn (Chiết Giang) vẫn còn mộ.
(2) Theo người dịch (ĐVT) nên hiểu là  viết tờ ai điếu  

Dịch thơ:
Đọc Tiểu Thanh ký

Vườn hoa muôn sắc Tây Hồ
Mà nay hoang phế đất gò tang thương
Lặng nhìn song cửa xốn xang
Mấy dòng ai điếu tiếc thương một người
Thần hồn son phấn thốt lời
Xót thương bạc mệnh một đời giai nhân
Văn chương vô mệnh trong ngần
Cớ sao lụy đến thư tàn chưa phai
Oán hờn kim cổ còn đây
Hỏi han vô vọng giãi bày trời xanh
Đem lòng gắn kết bóng hình
Kỳ oan phong vận chung tình nơi đây
Ba trăm năm nữa từ nay
Biết ai nhỏ lệ vơi đầy Tố Như

11
雜吟其二
龍尾江頭屋一間,
幽居愁極忽知歡。
達人心境光如月,
處士門前青者山。
枕畔束書扶病骨,
燈前斗酒起衰顏。
灶頭終日無煙火,
窗外黃花秀可餐。

(Đầu sông Long Vĩ có một gian nhà,
Ở ẩn buồn đến cực độ, bỗng thấy vui.
Cõi lòng của người khoáng đạt, sáng tỏ như vừng trăng,
Trước cửa nhà ẩn dật toàn là núi xanh.
Cạnh gối, có chồng sách đỡ tấm thân bệnh tật,
Trước đèn, uống chén rượu cho vẻ mặt tiều tuỵ tươi lên.
Suốt ngày, bếp không đỏ lửa,
Ngoài cửa sổ, hoa cúc vàng tươi tốt có thể ăn được.)

Dịch thơ:
Tạp ngâm (II)

Đầu sông Long Vĩ lửng lơ
Một gian nhà nhỏ bên bờ nước trôi
Thanh nhàn ẩn dật giữa đời
Sầu dâng cao vút, chợt cười hoan ca
Đạt nhân tâm cảnh bao la
Như trăng chiếu sáng chan hòa lung linh
Cao nhân trước cửa, núi xanh
Sách chồng bên gối tựa mình ốm đau
Trước đèn leo lét đêm thâu
Rượu đây cạn chén thắm mầu dung nhan
Lạnh tanh bếp núc lửa tàn
Hoa vàng ngon mắt chập chờn ngoài song

12
雜吟其一
秋聲一夜渡藍河,
無影無形入我家。
萬里西風來白髮,
一窗秋色在黃花。
百年哀樂何時了?
四壁圖書不厭多。
庭植孤松高百尺,
不知青帝奈人何。

(Tiếng thu một đêm vượt qua sông Lam,
Không bóng, không hình lọt vào nhà ta.
Gió tây muôn dặm làm cho mái tóc thêm bạc,
Sắc thu đầy cửa sổ trên khóm hoa vàng.
Cuộc vui buồn trăm năm bao giờ mới hết?
Sách vở đầy bốn vách, bao nhiêu cũng vừa. )
Trước sân trồng một cây tùng cao trăm thước,
Không biết chúa xuân sẽ làm gì được người (trồng cây)?


Dịch thơ:
Tạp ngâm (I)

Tiếng Thu đêm lướt sông Lam
Vô hình vô ảnh lọt thầm nhà ta
Gió Tây nghìn dặm cõi xa
Vương sầu hiu hắt bạc phơ mái đầu
Sắc thu bàng bạc một màu
Đầy song hoa cúc chen đua nở cười
Trăm năm hệ lụy cuộc đời
Bao giờ cho dứt buồn vui vật vờ
Sách đầy bốn vách Thi, Thư...
Mà chưa thỏa nguyện còn mơ xa gần
Gốc tùng cao vút trước sân
Chúa Xuân biết có giận hờn với ai

13
臥病其一
多病多愁氣不舒,
十旬困臥桂江居。
癘神入室吞人魄,
饑鼠緣床喫我書。
未有文章生孽障,
不容塵垢雜清虛。
三蘭窗下吟聲絕,
點點精神遊太初。

(Lắm bệnh, hay buồn tâm thần không được thư thái
Mười tuần nay nằm co  bên bờ Quế Giang
Thần ôn  vào nhà muốn bắt vía người
Chuột đói leo giường gặm sách vở của ta
Chưa từng có chuyện văn chương sinh ra nghiệt chướng
Không để cho bụi bặm lẫn vào nơi trong sạch
Dưới cửa sổ tam lan, vắng bặt tiếng ngâm nga
Tinh thần dần dần về  cõi hư không )

Dịch thơ:
Nằm bệnh (I)

Thân ta đa bệnh đa sầu
Còn đâu thư thái dàu dàu mê man
Nơi dòng sông Quế lan man
Mười tuần khốn khổ thân tàn nằm đây
Vào nhà chướng khí nào hay
Cuốn đi hồn phách lất lây bao giờ
Leo giường chuột đói nhởn nhơ
Sách ta gặm nát tả tơi ngỡ ngàng
Chưa từng nhìn thấy văn chương
Sinh ra nghiệt chướng phũ phàng xưa nay
Thanh hư thuần khiết còn đây
Quyết không để lấm bụi đầy hoen nhơ
Hoa lan mấy khóm nên thơ
Ngâm nga lặng tiếng im lời dưới song
Tinh thần chấm phá mông lung
Lãng du về cõi tận cùng hư không

14
寄友
漠漠塵埃滿太空,
閉門高枕臥其中。
一天明月交情在,
百里鴻山正氣同。
眼底浮雲看世事,
腰間長劍掛秋風。
無言獨對庭前竹,
霜雪消時合化龍。

(Mờ mịt cát bụi đầy bầu trời,
Đóng cửa gối cao, nằm khàn trong nhà.
Trăng sáng giữa trời, tình bạn còn đó,
Non Hồng dài trăm dặm, cùng chung một chính khí.
Mắt xem việc đời như phù vân,
Kiếm dài đeo lưng trước gió thu.
Một mình im lặng ngắm cây trúc trước sân,
Sương tuyết tan rồi, nó sẽ hoá rồng
.)

Dịch thơ:
Gửi bạn

Đầy trời cát bụi mịt mờ
Cài then kê gối nằm trơ với đời
Giao tình, trăng sáng giữa trời
Đồng chung chính khí, cao vời Hồng sơn
Nhìn xem thế sự phù vân
Gió Thu, trường kiếm miên man xoay vần
Lặng nhìn khóm trúc trước sân
Sương tan tuyết chảy rồng vờn hóa thân

15
偶興其二
一淚天涯洒(灑 )斷蓬,
羅浮江上起秋風。
黃雲白水兩相照,
急管悲絲萬不同。
六尺拘縻長役役,
四時拋擲太匆匆。
征鴻影裏家何在,
隱隱瓊雲三兩峰。

(Ở nơi chân trời, thương thân như ngọn cỏ bồng lìa gốc mà rơi lệ,
Gió thu nổi dậy trên sông La Phù.
Mây vàng, nước trắng soi chiếu lẫn nhau,
Tiếng sáo gấp, tiếng tơ buồn không hợp điệu chút nào!
Tấm thân sáu thước bị câu thúc, cứ vất vả mãi,
Bốn mùa thoi đưa, sao mà mau thế!
Trong bóng chim hồng bay kia, nhà mình ở đâu?
Chỉ thấy vài ba ngọn núi thấp thoáng trong mây miền Quỳnh Côi.)

Dịch thơ
Ngẫu hứng (II)

Khóc thương riêng một góc trời
Cỏ bồng mất gốc xa rời bơ vơ
La Phù gợn sóng xa xa
Gió thu hiu hắt mịt mờ về đây
Chiếu soi hòa quyện đã đầy
Mây vàng, nước bạc sum vầy giao duyên
Lạc cung lỡ nhịp triền miên
Gắt gao tiếng sáo, muộn phiền tơ ngân
Trầm luân lao nhọc mê man
Xích xiềng trói buộc tấm thân rã rời
Bốn mùa đắp đổi không thôi
Đẩy đưa vun vút như thoi, chạnh lòng
Nhà đâu? Diệu vợi bóng Hồng
Mây Quỳnh thấp thoáng chập chùng núi xa

16
秋至
四時好景無多日,
拋擲如梭喚不回。
千里赤身為客久,
一庭黃葉送秋來。
簾垂小閣西風動,
雪暗窮村曉角哀。
惆悵流光催白髮,
一生幽思未曾開。

(Cảnh đẹp bốn mùa, không được mấy ngày.
Thời gian vun vút như thoi đưa, gọi không trở lại.
Ngàn dặm thân  trơ trọi, ở đất khách lâu ngày,
Một sân lá vàng đưa thu đến.
Gió tây lay động bức rèm buông trước gác nhỏ,
 xóm hẻo lánh, tuyết xuống mịt mù, tiếng tù và buổi mai nghe buồn thảm!
Bùi ngùi nỗi thời giờ  thấm thoắt làm cho tóc chóng bạc.
Suốt đời mối u sầu  chưa hề gỡ ra)

Dịch thơ:
Thu sang

Bốn mùa, cảnh đẹp phù du
Gọi không trở lại, vù vù như thoi
Bao năm đất khách quê người
Trơ vơ ngàn dặm thân ai bẽ bàng
Vàng sân rụng lá thu sang
Rèm buông gác nhỏ ngỡ ngàng gió Tây
Mịt mờ sương tuyết giăng đầy
Tù và buổi sớm buồn thay não người
Ngậm ngùi ngày tháng tàn vơi
Bạc thêm mái tóc tả tơi bơ phờ
Một đời trầm mặc ưu tư
Còn đây hệ lụy như tơ rối bời

17
春日偶興
患氣經時戶不開
逡巡寒暑故相催
他鄉人與去年別
瓊海春從何處來
南浦傷心看綠草
東皇生意漏寒梅
鄰翁奔走村前廟
斗酒雙柑醉不回

(Mấy lâu khí trời xấu, không mở cửa,
Quanh quẩn hết mùa rét lại đến mùa nực.
Chốn tha hươn, người cùng năm trước từ biệt
Xuân từ đâu đến Quỳnh Hải?
Nhìn bãi cỏ xanh bên bến Nam mà đau lòng,
Chúa xuân để lộ sinh ý trên đóa mai lạnh.
Ông già hàng xóm loanh quanh ở miếu đầu thôn ,
Uống hết ve rượu và ăn hai quả cam, say chưa về)


Dịch thơ
Ngẫu hứng ngày Xuân

Cài then chặn khí tai ương
Lần hồi nóng lạnh vô thường đẩy đưa
Tha hương lữ khách, tạ từ
Mà nay xa cách hồn xưa năm nào
Xuân sang Quỳnh Hải, từ đâu?
Bến Nam xanh cỏ nhìn đau quặn lòng
Hoa mai se lạnh ngại ngùng
Chúa Xuân tình ý tỏ lòng còn e
Kìa ai lối xóm bước đi
Vội vàng, cổ miếu lối về trước thôn
Mát lòng ngọt lịm cam ngon
Say sưa cạn chén còn không muốn về

18
雜詩其一
壯士白頭悲向天,
雄心生計兩茫然。
春蘭秋菊成虛事,
夏暑冬寒奪少年。
黃犬追歡鴻嶺下,
白雲臥病桂江邊。
村居不厭頻沽酒,
尚有囊中三十錢。

(Tráng sĩ đầu bạc bùi ngùi ngửng nhìn trời,
Hùng tâm, sinh kế mờ mịt cả hai.
Xuân có lan, thu có cúc đã thành chuyện hão.
Lần lữa Đông rét hè nóng cướp cả tuổi trẻ,
Dắt chó vàng, mãi vui dưới núi Hồng Lĩnh,
Trong mây trắng, nằm bệnh bên bờ sông Quế.
Ở thôn quê, thích được mua rượu luôn,
Trong túi hãy còn ba mươi đồng tiền.)

Dịch thơ
Tạp thi (I)

Bạc đầu tráng sĩ bi ai
Đăm đăm ngước mắt nhìn trời thẳm xanh
Hùng tâm, sinh kế mong manh
Mênh mang mờ mịt cũng đành phận chung
Xuân lan, thu cúc hư không
Tuổi xanh lấy mất, lạnh đông, nóng hè
Chó vàng săn bắt mải mê
Dưới chân Hồng Lĩnh ê hề truy hoan
Mây bay trắng xóa ngút ngàn
Bên bờ sông Quế bệnh tàn nằm co
Tiền đây có sẵn chẳng lo
Cứ mua say khướt mấy vò rượu quê

-----------------------------------
Chú thích chung:
         Phần nguyên văn chữ Hán dựa theo Nguyễn Thạch Giang - Trương Chính, Nguyễn Du – Tác phẩm và lịch sử văn bản, NXB TP HCM. 2000. Phần dịch nghĩa và chú thích cần thiết dựa vào Lê Thước – Trương Chính, Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn Học. 1978. Tuy nhiên có một số chú thích cũng như về chữ Hán trong một vài bài thơ đã được người dịch sửa theo ý riêng và ghi là “người dịch (ĐVT)”